VỊ THẦY CỦA NHIỀU THẾ HỆ
Thích Thái Ḥa
Truyền Trao Đèn Pháp
Ḥa Thượng Thích Trí Thủ là vị Thầy của nhiều thế hệ học tăng của các Phật học viện Báo Quốc Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Quảng Hương Già lam - Sài G̣n. Cuộc đời của Ngài phần nhiều cống hiến cho việc đào tạo tăng tài và sự nghiệp hoằng pháp cho Đạo Phật Việt Nam hơn là những lănh vực phật sự khác.
Đối với việc đào tạo tăng tài, Ngài đào tạo đầy đủ cả ba mặt Giới học, Định học và Tuệ học.
Đối với giới học, Ngài luôn luôn vận động chư tôn đức mở các đại giới đàn để thí giới cho các giới tử cầu thọ bao gồm cả giới tử xuất gia và tại gia đủ cả giới Thanh văn và Đại thừa giới. Không những vậy, Ngài c̣n dạy giới luật cho các giới tử một cách cẩn mật và tế nhị. Ngài đă dịch và chú giải các luật Yết ma, Tứ phần làm tài liệu học tập cho các học tăng của nhiều thế ở trong các Phật học viện.
V́ vậy, Ngài Giác Nhiên và nhiều cao tăng khác ở Huế đă tặng Ngài bức hoành với bốn chữ sơn son thiếp vàng: “Giới Châu Quảng thí”. Nghĩa là vị Bồ tát có khả năng thực hành bố thí rộng răi các loại châu báu của giới pháp.
Đối với định học, có lần Ngài hỏi anh em học tăng chúng tôi rằng: “Quư vị có biết Đức Phật dạy pháp căn bản cho sự nhiếp tâm là pháp nào không?” Anh em chúng tôi chưa ai kịp trả lời th́ Ngài lại dạy tiếp: “Pháp Tứ Niệm Xứ và Pháp ngũ đ́nh tâm quán là pháp căn bản cho việc nhiếp tâm”.
Ngài kết hợp nhuần nhuyễn giữa Thiền Tông và Tịnh Độ để dạy dỗ cho anh em tăng sinh chúng tôi. Ngài dạy: “Thiền là để định tâm và kiến tánh thành phật; Tịnh độ không phải chỉ để định tâm kiến tánh thành Phật mà c̣n phải lập Tín, Hạnh và Nguyện để trang nghiêm tự thân và thế giới, nhằm báo đáp tứ ân, cứu giúp ba cơi”. Ngài đă khuyến khích học tăng chúng tôi, phải trang nghiêm tự thân và thế giới mỗi ngày, bằng cách mỗi buổi tối phải cùng nhau ngồi thiền tại chánh điện ít nhất là từ nửa giờ cho tới một giờ, và mỗi khuya cùng nhau lễ Phật 108 lạy, để nuôi duỡng và tăng trưởng Tín, Hạnh và Nguyện.
Đối với tuệ học, Ngài đă chú giải Bát Nhă Tâm Kinh làm tài liệu cho anh em học tăng chúng tôi học tập (nghiên cứu Bát Nhă Tâm Kinh và trích dẫn lời dạy của Ngài).
Ḥa thượng không phải chỉ dạy chúng tôi bằng lư thuyết mà bằng chính sự thực hành của Ngài.
Chúng tôi là những thế hệ học tăng theo học Phật học tại Phật học Viện Báo Quốc, Huế và đă được Ngài tổ chức trao giới pháp cụ túc tại giới đàn Phước Huệ, tại Phật học viện Hải Đức Nha Trang, năm 1973, do chính Ngài làm đàn chủ và Ḥa Thượng Phúc Hộ làm đàn đầu.
Tuy nhiên, bất cứ lănh vực nào mà Ngài đă dấn thân hành động, th́ không phải Ngài làm cho ḿnh, mà v́ lợi ích của nhiều thế hệ học tăng, v́ lợi ích của nhiều người, v́ lợi ích của dân tộc, nhân loại và muôn loài. Hạnh nguyện của Ngài chỉ có một là thượng cầu phật đạo hạ hóa chúng sanh, nhưng h́nh thức để thực hiện hạnh nguyện ấy th́ vô lượng.
Bài kệ niêm hương cúng dường vào buổi sáng của Ngài đă nói cho ta ư nghĩa ấy như sau:
“Phần hương nhất nguyện Pháp không
Đại nguyện đồng tham biến cát tường
Sát hải trần thân thi diệu lực
Trầm kha chướng loại tận an khương”.
“Đốt nén tâm hương dưới Phật đài
Phổ hiền hạnh cả nguyện nào sai
hiện thân cát bụi vào muôn nẻo
chữa bệnh trầm kha khắp mọi loài”.
Đối diện với kẻ ác để đấu tranh là người hùng, nhưng đi theo với kẻ ác để che chở cho những người hiền và biến kẻ ác trở thành người hiền th́ không phải chỉ là người hùng mà là một vị bồ tát đích thực. Điều ấy, tôi đă học được từ vị Thầy của tôi.
Giữ Tâm B́nh Thường
Năm 1977, tại Phật học viện Báo Quốc- Huế, Ḥa thượng dạy luật cho anh em học tăng chúng tôi, trong giờ dạy luật Ḥa Thượng nói: “B́nh thường tâm thị đạo”. Nghĩa là tu tập, ta phải giữ cho cái tâm của ta luôn luôn được b́nh thường. Cái tâm b́nh dị, thường tại ấy chính là đạo.
Học đạo là học cái tâm b́nh dị ấy nơi ta. Tu đạo là hành theo cái tâm b́nh dị ấy nơi ta mỗi ngày, trong bốn oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi , nhờ vậy mà ta có đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh để chế ngự và chuyển hóa tám vạn bốn ngàn trần lao phiền năo ngày đêm chuyển hiện ở nơi tâm thức ta.
Ḥa thượng dạy rằng: “Ta đi đến đâu, mọi người đem tâm b́nh dị mà đối xử với ta, ta biết rằng, ta có thể sống lâu với người ấy và người ấy có thể sống lâu với ta. Người ấy với ta có thể trở thành thân hữu lâu dài. Ta có thể lưu trú lâu dài ở nơi trú xứ của người ấy để làm phật sự”.
“Ta đi đến đâu mà mọi người đem tâm rất mực cung kính ta, đăi đằng ta, cung đón ta với những lễ nghi trọng thể cầu kỳ, th́ ta biết rằng, trú xứ ấy ta không thể sống lâu, mọi người trong trú xứ ấy không thể là thân hữu của ta lâu dài, sau khi hoàn tất công việc, ta nên cảm ơn họ và t́m cách từ giă, không nên dừng chân lâu để làm phật sự ở trú xứ đó. Tại sao? V́ sự trọng đăi tiếp rước như vậy, chúng không phải đi từ cái tâm giản dị, b́nh thường mà từ cái tâm cầu kỳ, mất b́nh thường. Cái ǵ phức tạp, cầu kỳ, mất b́nh thường, cái ấy không thể tồn tại lâu dài được”.
Đó là bài học mà tôi đă học được từ vị Thầy của tôi.
Giây B́m Bị Cắt
Ở Phương trượng Tu viện Quảng Hương Già Lam, mỗi buổi sáng ba giờ là Ḥa Thượng đă thức dậy, tĩnh tọa, uống trà và sau đó đi vào chánh điện Lễ Phật 108 lạy, theo nghi lễ sám mà chính Ngài đă soạn để hành tŕ.
Ngoài những khóa hành tŕ chung với đại chúng, Ngài c̣n hành tŕ riêng tại Phương trượng. Sau những thời khóa như vậy, Ngài c̣n tưới cây cho những cây kiểng trong vườn chùa. Việc tưới cây của Ngài không phải là để đối phó với những công việc như những người khác mà là một pháp hành từ bi rất thâm diệu.
Trước khi tưới, Ngài lượm hết tất cả những lá vàng trên cây và trên chậu và Ngài tưới chậm răi từ ngọn cho tới gốc và từ gốc cho tới ngọn. Ngài không phải chỉ tưới cho cây sống mà c̣n làm cho cây sống, xanh và sạch từ trên đọt cho xuống dưới gốc và từ dưới gốc cho đến trên đọt và từng kẽ lá.
Có lần Ngài v́ Phật sự phải đi xa một tuần, đại chúng lại cử một vị khác chăm sóc vườn cây, chậu kiểng, nhưng vườn cây, chậu kiểng đă không xanh đẹp và sạch như chinh Ngài đă chăm sóc. Trên chậu và cây có nhiều lá vàng úa, lại thêm cây b́m b́m leo nơi cây bồ đề, đă bị một vị khác cắt đứt dây c̣n vắt héo trên cây, nhân đây Ngài đă gọi anh em chúng tôi mà dạy: “Quư vị tu tập phải chăm sóc tâm từ bi của ḿnh mỗi ngày đừng bao giờ để khinh suất. Kinh Pháp Hoa, đức Phật dạy: “Dĩ từ tu thân”, quư vị đă học kinh Pháp hoa rồi mà!”
Ngài dạy: “Tất cả muôn vật từ hữu t́nh đến vô t́nh đều có sự sống, nên khi ta ngắt một ngọn lá, chặt một cành cây, để sử dụng cho một công việc phật sự nào đó là ta đều phải khấn nguyện và chú nguyện cho nó với tất cả tâm từ bi của ta, trước khi ta hành sự. Nếu ta không làm như vậy, oán khí của cây sẽ chạm vào tâm ta, khiến cho đức hạnh và tâm từ bi của ta bị thương tổn”.
Ḥa thượng dạy, người biết tu tập th́ không có cử chỉ lớn nhỏ nào mà không biểu hiện đầy đủ cả đoạn đức, trí đức và ân đức của ḿnh.
Ta biết tu tập, th́ qua những động tác hàng ngày của ta, giúp cho ta thành tựu được phước đức do đoạn trừ được hết thảy phiền năo mà có. Phiền năo lớn th́ phước đức teo lại, phiền năo teo lại th́ phước đức nở ra, phiền năo không c̣n th́ phước đức viên măn, toàn vẹn ấy gọi là đoạn đức.
Ta biết tu tập, th́ ta có giác và chiếu trong mỗi hành động hàng ngày của ta, khiến cho cái biết đúng đắn sinh khởi trong ta, khiến cho ta không c̣n rơi vào những nhận thức sai lầm khi sáu căn tiếp xúc với ngoại cảnh, v́ vậy phước đức có mặt là do trí tuệ phát sinh trong đời sống của ta. Trí năng sinh đức, đức nuôi dưỡng trí.
Ta biết tu tập, biết thiết lập hạnh và nguyện để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh từ tâm bồ đề của ta, th́ không có ư nghĩ, hành động và lời nói nào của ta là không chuyển tải chất liệu từ bi. Do hành động từ bi của ta đối với các loài hữu t́nh và vô t́nh mà phước đức của ta lớn lên và thành tựu từ đó. V́ vậy, gọi là ân đức.
Nếu không có đoạn đức và trí đức, ta không bao giờ thành tựu được ân đức. Đoạn đức và trí đức của ta càng sâu, th́ ân đức của ta càng lớn. Đoạn đức và trí đức của ta càng lớn, th́ ân đức của ta càng phủ khắp và thấm nhuần khắp hết thảy chúng sanh từ hữu t́nh đến vô t́nh.
Đó là bài học mà tôi đă học được từ vị Thầy của tôi.
Đối Mặt Với Một Công Án
Kinh Bộc lưu, đức Phật dạy các Tỷ kheo rằng: “Khi đi qua một ḍng sông, không dừng lại, không đi theo mà hăy vượt qua”.
Nếu đi qua ḍng sông ta dừng lại, ta sẽ bị ḍng nước chảy xói ṃn; nếu ta đi theo sẽ bị ḍng sông cuốn trôi và nhận ch́m. Nên, muốn không bị ḍng sông xói ṃn, cuốn trôi hay nhận ch́m ta không nên dừng lại, không nên đi theo mà hăy vượt qua.
Sau năm 1975, bấy giờ ông Mai Chí Thọ làm giám đốc Sở Công An Thành Phố, mời Ḥa Thượng Thích Trí Thủ làm việc, Ông Mai Chí Thọ nói với Ḥa Thượng rằng: “Phật giáo có theo Chính quyền không? Nếu không theo là chống. Nếu Phật Giáo chống chính quyền, chính quyền có công an, có quân đội, có nhà tù…” Ḥa Thượng cười và trả lời: “Phật giáo chúng tôi không theo mà cũng không chống”.
Câu trả lời ấy là một bài học quư báu cho tất cả Tăng Ni Phật tử chúng ta không những trong hiện tại mà c̣n ngay cả tương lai. Phật giáo không xu phụ bất cứ quyền lực chính trị nào và lại càng không lợi dụng bất cứ thế lực chính trị nào để truyền đạo. Tại sao? Bởi v́ mọi quyền lực chính trị của thế gian đều là tạm thời, nó không phải là vĩnh cửu. Trong lúc đó đạo giải thoát, giác ngộ là vĩnh cửu và cùng khắp. Ta không thể dùng cái vĩnh cửu và cùng khắp để chạy theo và xu phụ cái tạm thời và giới hạn. V́ vậy, Ḥa Thượng đă trả lời cho ông Mai Chí Thọ rằng: “Phật giáo không theo chính quyền”.
Và, Ḥa Thượng cũng đă trả lời cho ông Mai Chí Thọ rằng: “Phật giáo không chống chính quyền”. Tại sao? Bởi v́, trong thế gian nầy không có bất cứ đối tượng nào là đối tượng để cho Phật giáo chống đối cả, kể cả chính quyền. Mọi đối tượng đang hành hoạt ở trong thế gian đều đang bị ràng buộc bởi nhân duyên sanh tử, và đang bị thúc đẩy bởi những động cơ chấp ngă và chấp pháp. Phật giáo không hề đặt những cố chấp ấy như là những đối tượng để chống đối mà đặt nó như là những đối tượng để thiền quán, để thấy rơ bản chất bất thực của chúng, nhằm vượt qua, khiến cho những bản chất bất thực ấy, không thể đánh lừa, nhằm tựu thành phẩm chất toàn giác.
Lại nữa, trong Phật giáo chỉ có cái thấy đúng như thực đối với vạn hữu để sống đẹp, sống có ư nghĩa, sống không c̣n gieo những hạt nhân xấu ác để khỏi phải bị gặt quả khổ đau. Và trong Phật giáo chỉ có tâm từ bi, để giúp người khác sống đẹp, sống có ư nghĩa, sống không c̣n gieo những hạt nhân xấu ác để cho họ khỏi bị gặt những kết quả khổ đau ở trong đời nầy và đời sau.
Vậy, với cái thấy ấy và với tâm từ bi ấy, Phật giáo chẳng chống ai mà cũng chẳng theo ai, mà chỉ thể hiện cái thấy ấy, cái tâm ấy dưới nhiều h́nh thức thuận nghịch để cứu người, giúp đời, chứ không phải bám lấy cuộc đời để hưởng thụ ngũ dục hoặc chạy theo ngũ dục trong đời để bị chúng nhận ch́m trong tăm tối khổ đau.
Do đó, lời nói của Ḥa Thượng “Không chống mà cũng không theo” cho ông Mai Chí Thọ ngày ấy, không phải là một công án của Thiền học Việt Nam hiện đại cho tất cả chúng ta thực tập để khám phá chân nghĩa thâm diệu ở thời đại của chúng ta hay sao?!
Mỗi khi đối mặt với công án ấy, tôi thấy cuộc sống thật có ư vị và tôi đă thấy Thầy tôi luôn luôn nh́n những thế hệ học tṛ của Người để mỉm cười, dẫu rằng Người đă đi xa…
Thích Thái Ḥa
(phatviet.net)