Nhớ Thày
Chiêu Hoàng
Đức Dalai Lama và Đại sư Tsultim Gyeltsen
Thày tôi. Một người đơn giản, hiền hoà và tốt bụng. Tôi theo học thày từ gần 20 năm nay mà chưa từng thấy thày nổi giận hoặc làm điều ǵ để tâm tôi cho là không tốt. Người tốt bụng thế đó mà cũng phải ĺa thế gian này.
Thày đi, tôi mới thấm thía một cách sâu xa về sự Vô - Thường, về cái chết. Chẳng ai có thể ra ngoài cái chết. Nhưng cái chết của thày, riêng tôi tin chắc rằng, Ngài không chết, Ngài chỉ đi chơi đâu đó một lát rồi về.
Trước hôm thày đi vài bữa, ḷng tôi nôn nao khó tả. Trong tâm rất muốn tu tập trở lại pháp môn của ngài Vajra Yogini. Gọi lên thày để xin phép, nhưng không gặp được thày. Tôi ngồi xuống thiền định và gợi trong tâm h́nh ảnh xinh đẹp của Ngài Vajra Yogini. H́nh như, tôi được thày cho phép nên h́nh ảnh hiện trong tâm rất rơ nét. Tôi thấy h́nh ảnh thày nhập nhoè với h́nh ảnh của Ngài Vajra Yogini.
Một tối, nhớ thày. Tôi lên chùa, xin phép được gặp nhưng dĩ nhiên không ai cho tôi lên. Ḷng nôn nao, sau buổi tụng kinh trên chùa, tôi lái xe về mà cảm thấy rất buồn. Đêm đó, thày ngưng thở để vào ánh tịnh quang. Sáng hôm sau, nghe tin thày nhập diệt. Đột ngột tới độ tôi không thể khóc.
H́nh như thày có về. Lăng đăng quá, nhưng tôi biết chắc có sự gia tŕ của thày nên từ khi thày ngưng thở (vẫn c̣n trong ánh tịnh quang) sự quán tưởng của tôi trong những buổi kinh hằng ngày có vẻ rơ ràng hơn. Tôi nhớ thày. Một vài lần tôi thấy ḿnh khóc.
Ba ngày sau khi ngưng hơi thở. Thày quyết định rời khỏi xác thân. Trên nóc chùa, chiếc cầu ṿng bảy sắc bắc từ góc trời này sang góc trời kia ôm lấy mái chùa. Cả bọn ùa ra xem, có nhiều tiếng khóc thút thít. Hôm đó, chính là ngày trong tháng tu tập saddhana của ngài Vajra Yogini.
Ba ngày sau. Tôi lên gặp thày lần cuối. Báu thân ngài được phủ kín từ đầu đến chân bằng những loại vải gấm ngũ sắc. Trên đầu đội một cái măo mà chỉ có trong những buổi lễ lớn các vị đạo sư mới đội. Tôi không nh́n được mặt thày lần cuối. Buồn lắm, có thêm một ít thất vọng. Nhưng không sao. Tôi đứng chiêm ngưỡng, lễ lạy và thầm mong thày trở về sớm. Trở về để hoàn măn những hạnh nguyện của ngài. Trở về để c̣n dẫn dắt những đứa đệ tử ngu dốt, chậm chạp như tôi...
Quả là một điều rất khó khăn khi đưa báu thân (kudun) của thày về Ấn Độ để làm lễ hoả táng. Nhất là với điều kiện xác thân ngài phải c̣n nguyên vẹn, không được đưa vào nhà xác để làm những điều cần thiết. Tôi không đủ may mắn để theo thày về Ấn Độ lần cuối. Nhưng đúng hôm lễ hỏa táng. Tôi mơ thấy thày. Ngài vẫn hiền hoà và khả ái. Ngài muốn nhắn nhủ tôi điều ǵ đó mà v́ mải chơi, tôi đă không nghe được những ǵ thày muốn nói. Nghe đâu, sau buổi lễ, ngài đă để lại thật nhiều điều kỳ diệu.
H́nh như trong đáy cùng tâm thức, tôi vẫn c̣n khắc khoải đă không nh́n được thày lần cuối, v́ vậy mà khoảng 13 ngày sau lễ hoả thiêu, tôi lại mơ thấy thày. Ngài nằm trên một chiếc giường mà dưới bốn chân có bánh xe. Mọi người đẩy thày vào một trong những căn pḥng ở nhà tôi. Tôi chiêm ngưỡng được toàn thân ngài, đẹp như trong tranh. Ngài nằm đó, nh́n tôi với ánh mắt lung linh và nụ cười mỉm. Tôi chạy lăng quăng trong nhà như một đứa con nít 6 tuổi, tôi t́m một căn pḥng đẹp nhất trong nhà để dành cho thày. Cuối cùng, họ đẩy kudun thày vào căn pḥng có chiếc ḷ sưởi. Tôi đứng ở cửa pḥng nh́n vào với ánh mắt của một đứa trẻ thơ…
Tôi nhớ thày. Thật đấy! Nỗi nhớ tràn đầy len vào từng lỗ chân lông và hơi thở. Nhẹ nhàng lắm, nhưng lại không có khổ đau dằn vặt trong tôi. Tôi nhớ dáng thày ngồi trên pháp ṭa thuyết pháp về Lam Rim, có những đoạn thày dí dỏm và cười đến rung người. Có những đoạn thày rất nghiêm chỉnh, nhắc đi, nhắc lại về sự quan trọng của một vấn đề. Tôi nhớ khung cảnh đạo tràng trên chùa trong những buổi lễ, nhất là lễ Guru Puja. Ôi, những ánh đèn vàng lung linh trong chánh điện, nhất là những lúc được lên dâng lễ. Lời kinh thiết tha. Tôi cùng với hai người bạn tụng như hát. Thày rất hài ḷng về giọng tụng của chúng tôi. Nhiều lần, thày khen chúng tôi hát hay. Tôi rất sung sướng như một đứa trẻ khi được thày khen như thế. Tôi nhớ đến căn pḥng riêng của thày với đầy tranh, tượng. Mỗi lần bước vào căn pḥng ấy, tôi có cảm tưởng ḿnh vừa bước vào một khung cảnh mới. Thường là tôi quỳ dưới chân thày. Dù biết thừa những ǵ xảy ra cho tôi, thày vẫn thường hay hỏi những chuyện xảy ra hàng ngày của tôi, và những điều khó khăn tôi gặp trong đời sống. Sự quan tâm của thày, không chỉ dành cho một ḿnh tôi mà dành cho tất cả các đệ tử của thày.
Một lần, tôi bỏ chùa rất lâu v́ nhiều nguyên nhân rất vô lư và đáng trách. Hốt nhiên một hôm tôi lại nhớ thày, chắc có lẽ thày nhắc tôi phải trở về. Niềm hối hận dâng tràn khi tôi nghĩ đến vị thày khả kính. Tôi đi mua một chiếc bánh apple pie thày rất thích lên để tạ tội. Ngôi ngồi phục dưới chân thày, chẳng nói một lời mà nước mắt tràn đày v́ ḷng hối hận đă bỏ đi lâu như thế. Thày yên lặng để cho tôi khóc. Khi cơn xúc động đă bớt, tôi mới nói được vài lời và xin lỗi những điều ḿnh đă phạm. Thày từ bi lắm, chẳng những thày đă không trách tôi mà c̣n blessing cho tôi nữa. Thày dùng hai bàn tay ôm lấy mặt tôi, khuyên tôi chớ nên bỏ đạo. Thày cho tôi một bài pháp ngắn nói về sự vô thường và sự quư giá của một kiếp người.
Trong suốt 49 ngày sau khi thày mất, các vị sư đều tụng Guru Puja mỗi tối. Tuần lễ đầu tiên, lúc tụng đến đoạn mà tôi và các bạn thường lên dâng lễ, chẳng muốn khóc, nhưng nước mắt cứ tuôn như mưa. Tôi phải ngưng lại, chỉ lắng nghe các vị sư và những người bạn chung quanh tụng. Trên pháp toà, h́nh ảnh thày mỉm cười nh́n tôi. Ánh mắt thày lung linh quá và từ bi biết bao....
Thày tôi. Một người đơn giản, hiền hoà, nhân từ và tốt bụng. Ngài đă chẳng từ bỏ một đứa đệ tử nào, ngay cả một đứa ngu dốt, hư đốn và chậm chạp như tôi.
Tôi xin niệm danh Ngài Venerable Geshe Tsultim Gyeltsen bằng tất cả ḷng ngưỡng mộ chân thành của ḿnh.
Nguyện xin ngài từ bi trở lại cơi nhân gian này một ngày rất gần để c̣n hoàn măn được những hạnh nguyện của Ngài.