MỘT VÀI NÉT CHẤM PHÁ

QUA NHỮNG BÀI THƠ

CỦA HT. THÍCH TRÍ THỦ

 

Đại Lăn 

 

 

Qua sự nghiệp trước tác và dịch thuật của Ḥa Thượng th́ phần thơ chiếm một tỷ lệ quá ít đối với các phần dịch thuật và sáng tác khác nhất là về Luật và, c̣n ít hơn nữa đối với cả một đời Ngài đă bỏ ra phục vụ đạo pháp và dân tộc, qua nhiều chức năng nhiệm vụ khác nhau nhất là giáo dục và văn hóa là chính của Ngài. Tuy chúng nói lên rất ít ỏi, nhưng không v́ thế mà chúng không mang lại cho chúng ta một cái nh́n chính xác và rơ ràng hơn về cuộc đời của Ngài và, cũng từ đây chúng ta mới thấy rơ được chân dung của một bậc Thầy vĩ đại qua chí nguyện kiên cường của Ngài trong việc “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.” một cách trọn vẹn như trong bài : 

“Đốt nén tâm hương trước Phật đài

Phổ Hiền hạnh cả nguyện nào sai

Hiện thân cát bụi vào muôn nẻo

Cứu bệnh trầm kha khắp mọi nhà.”

(tụng Kinh Hoa Nghiêm cảm tác) 

Chính hạnh nguyện của Ngài Phổ Hiền Bồ-tát đă chắp cánh cho Ngài bay lên cao hơn và, h́nh như Ngài đă thật sự khế hợp với pháp môn này. Qua bốn câu thơ như là vừa tán dương hạnh cả của Ngài Phổ Hiền và cũng như là vừa lập nguyện cho chính ḿnh; những tương ưng ở đây thật tuyệt vời cho khắp không gian vô cùng và thời gian vô tận, nó nói lên chí nguyện bền chắc lâu dài qua hai đức trí tuệ và từ bi được thể hiện từ hạnh nguyện. Nhưng trước khi Ngài muốn thể hiện hạnh nguyện này Ngài đă phải trải qua những năm tháng lau sạch b́nh bát trong chức năng nối ḍng nghiệp Thánh không biết là bao lâu, Ngài đă thật sự không c̣n nhớ nữa: 

“Tào khê nước chảy về đông

B́nh bát nối dơi lâu không nhớ ngày

Trăng thiền nào có khác xưa

Viên Thành ấn chứng đă dày công tu.”

(Nước Tào Khê) 

Những huân tập thiền đă đưa đến sự bùng vỡ trong tu tập “Trăng thiền nào có khác xưa” đó chính là cái nhân để từ đó Ôn cất cánh bay xa, đó cũng chính là những nổ lực ban đầu trong việc thượng cầu Phật đạo của Ngài và, chúng luôn được thể hiện qua cuộc sống sau này được thể hiện từ cuộc sống trong hạ hóa chúng sanh không bao giờ ngừng nghỉ qua việc vừa giữ tâm ḿnh luôn luôn trong sáng cùng đem trí tuệ đó sáng soi cho mọi người: 

“Nội hạc chưa ngừng sân Lăo thọ

Ngàn mây c̣n vướng ngơ Hoàng Mai

Non xanh, pháp nhăn hoa Linh Thứu

Nước biếc, thiền tâm bóng Thiện Tài.”

(cảm tác xuân Canh Tuất) 

Trước hết, trong hiện tại tấm ḷng của Ngài đang được những h́nh ảnh và các biểu tượng như nội hạc, ngàn mây, non xanh, nước biếc và cây sân Lăo, ngơ Hoàng Mai, hoa Linh Thứu, bóng Thiện Tài đang nuôi dưỡng và làm lớn mạnh hạt giống an lành giải thoát trong cuộc sống của chính Ngài, đó chính là cửa ngơ bước vào Không tâm của ánh sáng trăng thiền nào khác xa xưa và, sau nữa là ánh sáng đó Ngài vẫn giữ măi nó không bao giờ đánh mất: 

“Đốt nén hương nguyền thề sám hối

Trước sau giữ trọn chữ Không Tâm.”

(Xuân Quư Măo cảm tác) 

Trong phương tiện tương đối để chúng ta  bước vào cửa Không của không cửa nhà Tổ th́ đương nhiên những h́nh ảnh và những biểu tượng đó cần phải có để chúng ta lấy làm phương tiện làm nhân cho những bước đi giải thoát kế tiếp, do đó chúng ta rất cần có những phương tiện đó. Chính v́ chúng là những phương tiện tạm thời cần thiết, nên chúng chính là những nhân tố không thể không có cho chúng ta trong lúc thực hiện hạnh nguyện thượng cầu hạ hóa; nếu không có chúng chúng ta sẽ bị kẹt vào trong thiên chấp của sắc không và, luôn luôn bị chúng trói buộc vào tà kiến đảo điên thị phi khó thoát ra được, như vậy chúng ta cầm chắc sẽ bị trôi lăn măi trong đường sanh tử luân hồi sáu cơi. Ở đây nếu ai ngộ ra được cảnh giới sắc không không tịch, không tự tính này th́ sẽ nhận ra được Bát-nhă tính không trong suốt của không tâm và cũng sẽ nhận ra được việc làm của Ôn đối với đất nước và dân tộc này: 

“Tâm sự sắc không ai có biết?

Ḱa gương Bát-nhă vốn trong ngời.”

(Xuân Mậu Thân) 

Ở đây, từ không tâm của phương tiện đến Không Tâm của cứu cánh, nó cũng giống như sự khác biệt giữa chữ Phật của mê và chữ Phật của ngộ vậy, có nghĩa là khi mê gọi là chúng sanh khi ngộ gọi là Phật thế thôi. Do đó cảnh giới của sắc không chúng ta cần phải thông suốt, nếu không thông suốt ắt sẽ bị chúng làm chướng ngại trong ư niệm “có-không” và, như vậy không đời nào chúng ta vượt qua khỏi sinh tử luân hồi được. Ở đây Ḥa Thượng sau khi chính tự thân Ôn đă tỏ ngộ được thể cảnh giới sắc không cùng những diệu dụng của nó như thế nào rồi, th́ sau đó Ngài liền nghĩ ngay đến sứ mạng hạ hóa chúng sinh của minh đói với tha nhân như thế nào? 

“Sứ mạng làm tṛn thân đệ tử

Chiếu đèn diệu huệ giữa đêm sâu.”

(Cảm niệm Phật thành đạo) 

Sứ mạng của các hàng đệ từ đức Đạo sư là trên t́m mọi cách để chứng đạt được đạo vô thượng Bồ-đề, dưới hoàn thành sứ mệnh hóa độ mọi loài chúng sanh để họ được như ḿnh; đây là một sứ mạng cao cả cho chính tự thân và tha nhân. Khi hai sứ mệnh này hoàn thành trọn vẹn th́ lúc đó chúng ta mới hoàn toàn đạt được an vui giải thoát vĩnh viễn. Đó cũng chính là tâm sự gần xa của Ôn khi nh́n ḥn non bộ bản đồ Việt Nam mà chạnh nghĩ đến hiện t́nh đất nước dân tộc và đạo pháp: 

“Dù cho Nam Bắc đôi đường,

Đốt ḷ hương nguyện bốn phương một nhà;

Sớm hôm hướng nẻo Phật đà,

“Sắc, Không” tâm sự đường xa nỗi gần.”

(Cảm đề Non bộ bản đồ Việt Nam) 

Tâm sự đường xa nỗi gần của Ôn đối với tha nhân phát xuất từ ḷng từ bi được phát khởi từ trí tuệ không tâm Bát-nhă mà Ngài đă t́m lại được nơi chính ḿnh qua diệu huệ của hạnh nguyện thượng cầu hạ hóa theo gương Bồ-tát Phổ Hiền. Ḥa Thượng luôn luôn ư thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của ḿnh, nhưng với sự quyết tâm của ḿnh trong tự lợi và lợi tha Ôn vẫn bước đi không một chút do dự, miễn sao bước đi của ḿnh vừa lợi ḿnh lợi cho người th́ Ngài không ngại: 

“Dù phải chịu muôn ngàn gian khổ

Con hết ḷng v́ đạo hy sinh

Nương từ quang t́m đến bảo thành

Đặng tự giác giác tha viên măn.”

(Quỳ trước điện) 

Con đường đi đến tự giác giác tha và để hoàn thành giác hành viên măn th́, ngoài vấn đề hy sinh chịu gian khó qua sự thể hiện đức tính từ bi c̣n phải có sự quyết tâm và nổ lực hết ḿnh trong tinh tấn mới có thể hoàn thành được hạnh nguyện của chúng ta được, nếu không th́ sẽ bỏ dở giữa đường, đó chính là con đường đưa đến giác hành viên măn: 

“Hướng về muôn đức từ bi

Đường lên giác ngạn quyết đi tận cùng.” (Hướng về) 

Và Ôn luôn luôn nuôi dưỡng hạnh nguyện này qua những sách tấn chính ḿnh thường ngày trong cuộc sống. Những chất liệu nuôi dưỡng cho chính bản tâm Ngài mang chất liệu từ đức tin từ bi kiên cố vào chân lư mang đậm nét trí tuệ, cộng thêm những nổ lực tinh tiến tự nguyện của tự thân dẫn đến mọi sự an lạc cho chính Ngài trong tu tập: 

“Một ḷng kính lạy Phật đà

Ngàn đời con nguyện ở nhà Như lai

Con hằng bận áo Như lai

Con ngồi pháp tọa Như lai muôn đời.”

(tụng kinh Pháp Hoa cảm tác) 

Trí tuệ và từ bi là đôi cánh được nối thêm để Ḥa thượng vượt qua biển khổ sinh tử và hoàn thành sự nghiệp giải thoát cho chính Ngài, v́ vậy chúng luôn luôn hiện hữu trong cuộc sống của chính Ngài trong việc thực hành hạnh nguyện Phổ Hiền của minh. Và cũng từ việc thực hiện hạnh nguyện của ḿnh đối với tự thân và tha nhân qua chí nguyện thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh trong chức năng có được của ḿnh đối với dân tộc và đạo pháp mà Ngài đă chịu không biết bao nhiêu là cay đắng khó khăn thậm chí đến tai tiếng nữa; nhưng Ngài với tâm không của ḿnh v́ tự lợi và lợi tha v́ dân tộc và đạo pháp mà Ngài cam tâm gánh chịu mọi khổ đau và tai tiếng đó: 

“Cay đắng nếm dư đầu chót lưỡi

Khen chê nghe đủ giữa vành tai.”

(Xuân Mậu Thân) 

Sự chấp nhận của Ngài qua những phản ứng chung quanh đối với Ngài không hẳn chỉ là những tiếng bất lợi mà c̣n có những lời khen ngợi khuyến khích nữa; nhưng giờ đây những khen chê, buồn vui đối với ngài không c̣n là vấn đề để đặt ra và xét lại trong phân biệt nữa, mà là một chấp nhận với tâm không, do đó Ngài luôn lưôn dùng nụ cười thay thế cho những phản ứng của Ngài về những dư luận chung quanh: 

“Sáu bảy xuân thu giữa cuộc đới

Buồn vui mừng giận khéo trêu ngươi

Thân này đă hứa cùng non nước

Vinh nhục khen chê chỉ mỉm cười.”

(Cảm tác sinh nhật 67 tuổi) 

Nụ cưới của không tâm luôn thể hiện, chỉ có ḿnh biết ḿnh mà thôi, dù thế nhân có hiểu ḿnh hay không hiểu ḿnh cũng mặc, v́ chính Ngài mới biết được việc làm của ḿnh và với không tâm th́ sẽ không tạo ra tác nhân, mà đă không tạo ra tác nhân th́ làm ǵ có thọ quả thế thôi. Với Không tâm đối với tự thân và đối với mọi người, thật sự giờ này có lẽ không ǵ có thể trói buộc được bước đi của Ngài, Ngài sống với duyên đến, theo với duyên đi, cho dù là bất cứ hoàn cảnh nào đi nữa; th́ việc làm đúng nghĩa tùy duyên nên trở thành tự tại. 

“Xuân về Mậu Ngọ tuổi lai hy

Chẳng dám khoe chi chẳng muốn ǵ

Bảo ở th́ ừ hoan hỷ ở

Kêu đi âu cứ tự nhiên đi

Cảnh khô lá úa mai nhưng nụ

Mây cuốn sương tan đá vẫn lỳ

Vô tận không thời vô tân ư

Thị chưa từng bận ngại ǵ phi.” 

 

Đó chính là cách sống đúng của những người con Phật theo đúng nghĩa chỉ dạy của bậc Đạo sư trong sự nghiệp hoằng pháp độ sinh của Ngài. Lúc này mọi chướng ngại nhau trong cuộc sống sẽ được dung thông tất cả trong thời-không vô tận. Ở đây không c̣n bất cứ một ư niệm nào sai biệt chống trái nhau hết cho dù đó là thị hay là phi trên mặt hiện tượng tương đối của sự tướng và, thật sự đây chính là cảnh giới giải thoát hiện tiền của những người con học Phật thực hành theo Phật.

Qua những vần thơ chúng tôi trích ra từ tập I trong ba tập của Trí Thủ toàn tập, cho chúng ta một cái nh́n đúng hơn về Ngài và, cho chúng ta thấy được cái vĩ đại của Ngài trong chí nguyện thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh, cùng sự thể hiện nếp sông tự tại qua cuộc sống. Chúng ta những kẻ hậu bối đi sau chỉ ghi lại những ǵ có được một cách ít ỏi qua những bài thơ của Ngài để lại, đối với toàn bộ những ǵ Ngài đă cống hiến cho Phật Giáo Việt Nam và dân tộc này qua sự nghiệp giáo dục và văn hóa của Ngài như lược sử và những cống hiến được ghi lại qua ba tập Trí Thủ Toàn tập đă ghi lại để chúng ta có thể nhận thức đúng hơn về Ngài.

 

 

 


 
Bài vở đóng góp xin gửi về: baivochanhphap@gmail.com
Copyright © 2009 Chanh Phap Newspaper
Last modified: 04/01/10