QUÉT RÁC
Vĩnh Hảo
Những hoa hồng hôm qua nở đẹp dưới nắng buổi đầu thu, nay đă rụng xuống sân, vẽ thành một khoanh nhỏ lốm đốm những cánh hoa teo rút, đỏ tía. Lá vàng từ cây kiểng vườn nhà kế bên cũng lác đác rải xuống vườn này. Trời không gió, nhưng lạnh. Qua khung kiếng cửa sổ hướng về vườn trước, thấp thoáng có bóng người bộ hành băng ngang, khoác áo dày, dẫm trên lá xào xạc. Ngập trên băi cỏ và lối đi là lá phong, nhiều màu, từ vàng nhạt đến đỏ sẫm. Nh́n từ xa, chỉ thấy một thảm lá dầy, thỉnh thoảng giao động như những đợt sóng nhỏ gợn nhẹ trên mặt đại dương chóa ánh mặt trời.
Thảm lá ấy sẽ được trải khắp vườn trước như thế cho đến cuối tuần, khi những người làm vườn mang máy thổi và dụng cụ hốt rác đến. Chẳng biết nên buồn hay vui khi lá vàng được dọn sạch, trả lại cho khu vườn vẻ ngăn nắp, sạch sẽ cố hữu, như mọi người mong đợi.
Hoa trên cành, lá trên cây, người trên đời, khi rơi ngă xuống, mang theo sinh khí và cái đẹp xuống ḷng đất. Những cánh hoa phai và những chiếc lá vàng nhiều sắc màu, cũng chỉ trong một thời gian ngắn đă trở thành rác rến. Trên thực tế, mỹ quan chẳng qua cũng chỉ là một thoáng lăng mạn của những kẻ dị cảm, đa t́nh, không thắng nổi cái ngăn nắp trật tự và vệ sinh chung của đời sống xă hội.
“Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô.” Nai có thích lá vàng không th́ không biết. Người th́ hầu như đa số thích ngắm lá vàng mùa thu, c̣n trên cành hay rụng đầy mặt đất. Người cũng thích dẫm lên lá khô, lắng nghe tiếng lào xào vui tai. Có khi hứng thú nằm lăn trên thảm lá, đùa giỡn với nhau, hoặc chỉ một ḿnh, nằm im, lặng ngắm những cánh chim bay ngang trời thu tịch mịch, và lắng nghe tiếng gió rung đưa những hàng cây trơ trụi.
Nhưng đó chỉ là những phút nhàn tản, nghỉ ngơi, muốn tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên nơi băi cỏ, công viên, b́a rừng… c̣n ở nhà, sân trước hay vườn sau, lá vàng khô là rác rến, cần phải hốt dọn.
Thực tế của đời sống trong tương quan xă hội là như thế. Những ǵ đă rơi, tàn, phai, héo úa, không c̣n dính vào thân, không c̣n là sở hữu của ai, hoặc không ai muốn sở hữu… đều là rác.
Tóc huyền ai thơm, tung bay những chiều lộng gió, rời khỏi mái đầu ấy, một sợi hay một nhúm, trên đất hay trong thức ăn, sẽ không c̣n là chủ đề cho một câu thơ lăng mạn.
Rác. Rác. Rác. Nh́n đâu cũng thấy rác là đặt chân nơi cánh cửa của chánh kiến, phân biệt chánh-tà, thiện-ác. Rác là những ǵ đă được sinh ra, tạo ra, mà không duy tŕ được trạng thái nguyên thủy của chúng, hoặc không cần thiết dùng đến nữa. Nhân nơi rác mà thấy cái tướng hoại diệt. Không có sinh th́ không có diệt. Không có diệt th́ không có rác. Cho nên việc quét rác, dọn dẹp là việc trường kỳ không bao giờ dứt, của người phu chuyên nghiệp đối với vệ sinh chung, của mỗi người đối với nơi trú ẩn sinh sống của ḿnh, và nhất là những người mang hạnh nguyện quét lá, lau chùi, nơi già-lam tịnh địa.
Quét dọn rác rến, lau chùi bụi bặm là hiện tướng, cũng là hiện tượng, của việc trau luyện nội tâm, tịnh hóa ư niệm. “Thời thời thường phất thức, vật sử nhạ trần ai.” Lau chùi trong từng giây phút, từng niệm, đừng để bụi rác bám vào. Mỗi ư niệm khởi sinh, rồi tan biến đi, đều trở thành rác. Dù là ư niệm tốt hay xấu, cũng đều là rác.
Trong thiền quán, dùng niệm sau để xua đuổi hoặc quan sát niệm trước th́ cũng giống như dùng chổi mà quét rác. Niệm trước là rác, niệm sau là chổi. Niệm trước vừa sinh, đă diệt, trở thành rác. Niệm sau mới vừa làm chổi, đă trở thành rác, để rồi bị cái niệm sau đó nữa, quét đi. Rác, chổi, rác, chổi, rác, chổi… Chổi, rác, chổi, rác, chổi, rác… Cứ thế mà thực tập, người quét rác dần tiến đến trạng thái không c̣n rác phát sinh: vô niệm. Rác không sinh th́ chổi cũng không sinh. Không rác th́ cần ǵ chổi. Có rác nên có chổi. Nhưng nếu tự thân rác vốn đă là chổi th́ tự thân chổi cũng vốn là rác. Cây chổi cùn, không dùng được nữa, dù c̣n rác hay hết rác, th́ chổi đó cũng đă là rác. Tiêu đích cuối cùng của việc quét rác là ở chỗ không c̣n rác; nhưng tâm thái và hành vi thượng thừa của sự nghiệp quét rác chính là lúc có thể vất đi cái chổi. Không dũng mănh vất đi cái chổi th́ muôn đời, dù khổ nhọc công phu đến đâu, vẫn cứ là rác.
Chổi. Chổi. Chổi. Nh́n đâu cũng thấy chổi là đặt chân nơi cảnh giới diệu dụng của phương tiện. Nơi ấy, nh́n đâu cũng thấy Phật Pháp; đặt tay vào phương tiện nào, phương tiện ấy trở thành Phật Pháp. Không thấy được công dụng của chổi th́ không thấy Phật Pháp. Không thấy được mục tiêu của chổi, lập tức biến chổi thành rác, không cần chờ cho chổi hư hoại, cùn ṃn. Thấy được mục tiêu của chổi th́ có thể dùng bất cứ vật dụng nào để quét dọn rác và bụi bặm, không nhất thiết phải là chổi.
Chân lư không thể được diễn đạt rốt ráo bằng ngôn ngữ văn tự. Nói, diễn tả, là để hiển bày chân lư, giống như dùng chổi mà quét rác. Xua quét đi tất cả những ǵ không phải sự thật để hiển bày sự thật. Ở nơi chốn không c̣n ǵ để quét, không c̣n ǵ để lau chùi được nữa, mới là cái chỗ tột cùng của việc lau quét, chứ không phải ở nơi bụi rác, cũng không phải ở nơi khăn lau và cây chổi.
Không thể nhân danh chân lư tối thượng để tổn hại kẻ khác, dù bằng ngôn ngữ của chánh pháp, huống hồ là ngôn ngữ thế tục, phi pháp. “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp.” Phật Pháp cũng chỉ là phương tiện, là chổi để quét, và cũng là rác cần dọn đi.
Với cái tâm bất chánh th́ dù có dùng ngôn ngữ của chánh pháp, nhân danh mục tiêu tối hậu của chánh pháp, vẫn cứ là những manh động của tà kiến, của tà nhân. Chánh pháp cần được tuyên dương và truyền bá là do có thể nương nơi đó mà thấu đạt sự thật. Nhờ sự thật mà sống an lạc và hạnh phúc, giác ngộ và giải thoát. Cho nên, nếu v́ chánh pháp mà thương tổn, tác hại đến người khác, th́ chẳng khác ǵ phỉ báng chánh pháp. Đó là dấu hiệu của cây chổi chưa kịp quét rác mà đă trở nên mục rữa như rác rưởi.
Từ mục đích tối hậu là hiển bày chân lư, chúng ta vẽ nên những lư tưởng, vận động những phong trào, dựng nên những tổ chức. Những thứ ấy, nếu cố gắng ǵn giữ, bảo vệ, điều hướng một cách khéo léo, có thể phần nào tương hợp với mục đích tối hậu kia, ít ra cũng lợi ḿnh lợi người trong một thời gian hay hoàn cảnh nào đó. Ngược lại, sẽ dẫn đến một kết quả tệ hại, xa vời, chẳng một chút dính nhập đến mục tiêu nhắm đến. Lư tưởng, phong trào, tổ chức… là những phương tiện, nhưng thường khi lại trở thành cứu cánh để tôn thờ, bảo vệ, rồi từ “cứu cánh ảo” ấy, tranh thủ những địa vị và danh vọng hăo huyền, đến nỗi có thể v́ chúng mà đánh mất lương tri, làm bạn với kẻ ác, sẵn sàng làm điều ác, biến lư tưởng, phong trào, tổ chức của ḿnh thành đống rác uế nhiễm mà không tự biết.
Kẻ thượng trí là người có thể tạo nên tất cả mà cũng sẵn sàng vất bỏ tất cả. Không thấy được sự giả lập của phương tiện th́ muôn kiếp chỉ lẩn quẩn trong đống rác trần gian.
Gió. Gió. Gió. Gió động hay lá động? Từng cơn gió lùa qua làm chao động mặt lá. Thỉnh thoảng có cơn gió xoáy, cuốn xoay những chiếc lá vàng đưa lên cao, dẫn đi xa, rồi thả chúng rơi rụng dần nơi góc vườn. Có gió hay lá nào động đâu! Chỉ là vọng động của tâm. Thiền sư Huệ Năng đă từng nêu ư đó.
Những ǵ bạn nói, những ǵ tôi nói, đều là rác cả. Chẳng có lời nào có thể ở măi với đời; bởi v́ âm thanh, ngôn ngữ, cũng đều là tướng của vô thường, hoại diệt. Chỉ ở cảnh giới bất động của tâm, khi mà con đường ngôn ngữ tuyệt dứt, mới hiện bày một thế giới cao rộng bao la; nơi đó, không có bụi rác, không có chổi, không có gió. Ngôn ngữ đạo, đoạn. Tâm hành xứ, diệt. Nơi đó, là niềm tịch lặng thâm sâu không bờ mé, là chỗ mà cả ư và lời đều không thể chạm đến được.
(trích từ “Trong Những Thoáng Chốc”, tác phẩm sẽ xuất bản của Vĩnh Hảo)