ĐỨC PHẬT
Tác giả: Narada Thera
Dịch giả: HT. Thích Trí Chơn
Vào ngày trăng tṛn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Đô, tên là Tất Đạt Đa (Siddhattha) họ Cồ Đàm (Gotama) đă ra đời tại một vùng ở xứ Nepal (2), là đấng được xem như bậc Thầy của tôn giáo vĩ đại nhất trên thế giới. Được nuôi dưỡng trong cảnh xa hoa và hấp thụ một nền giáo dục xứng đáng với một vị hoàng tử, như mọi người, thái tử đă lập gia đ́nh và có một con.
Bản tính ưa trầm tư và ḷng từ bi bao la của thái tử, đă không cho phép thái tử hưởng thụ những thú vui vật chất nhất thời ở cung điện hoàng gia. Thái tử không hề biết buồn khổ, nhưng người cảm thấy xót thương sâu xa cho sự khổ đau của nhân loại. Mặc dù sống trong cảnh giàu sang phú quí, nhưng thái tử đă ư thức được tính phổ cập của sự khổ đau. Cung điện với mọi thú vui thế gian không c̣n là nơi thích đáng cho vị hoàng tử đầy ḷng từ bi sống nữa. Thời gian thuận tiện đă đến để thái tử xuất gia. Nhận thức được sự hư ảo (phù hoa) của những thú vui khoái lạc, vào năm 29 tuổi, thái tử từ bỏ mọi dục lạc trần gian, để đắp lên ḿnh mảnh y vàng giản dị của nhà tu khổ hạnh, một ḿnh, không một đồng dính túi, lang thang đây đó để đi t́m Chân Lư và sự An Lạc.
Đó là một cuộc từ bỏ lịch sử vô tiền khoáng hậu, v́ thái tử đă đi tu không phải lúc tuổi về già, mà là đang độ thanh xuân; không phải trong cảnh nghèo khổ mà là giàu sang. Như thời xưa người ta tin tưởng rằng không có sự giải thoát nào có thể đạt tới, trừ phi con người sống một đời sống hết sức khắc khổ, thái tử cũng đă áp dụng liên tục mọi h́nh thức tu hành cực kỳ khổ hạnh. Thái tử đă thực hiện một nỗ lực phi thường trong suốt sáu năm trường.
Thân h́nh thái tử gầy ốm đến chỉ c̣n một bộ xương. Thái tử càng hành hạ xác thân bao nhiêu th́ mục tiêu (giải thoát) càng xa người ấy bấy nhiêu. Những sự khổ hạnh cực nhọc và không kết quả mà thái tử thực hành liên tục đă tỏ ra hoàn toàn vô ích. Thái tử bây giờ nhận thức được trọn vẹn qua kinh nghiệm bản thân, về sự quá vô ích của hành động ép xác, đă làm gầy yếu thân thể và gây nên sự sút kém tinh thần.
Do lợi ích (có được) từ kinh nghiệm vô giá này của ḿnh, thái tử cuối cùng đă quyết định theo con đường độc lập, tránh cả hai cực đoan của sự quá dục lạc và quá ép xác. Điều trước làm tŕ chậm sự tiến bộ tinh thần và điều sau làm giảm sút trí tuệ của hành giả. Con đường mới Ngài tự ḿnh t́m ra là Trung Đạo mà sau này đă trở thành một trong những đặc tính nổi bật ở giáo lư của Ngài.
Một buổi mai an lành, trong lúc Ngài đang chú tâm thiền định, không được sự giúp đỡ và chỉ dẫn của bất cứ siêu lực nào; duy nhất chỉ dựa vào nỗ lực và trí tuệ của ḿnh, Ngài đă đoạn diệt tất cả phiền năo, thân tâm thanh tịnh, quan sát sự vật đúng như thật, và chứng đạo Giác Ngộ (thành Phật), vào lúc tṛn 35 tuổi. Lúc mới sinh ra, Ngài không phải là một vị Phật, nhưng Ngài đă thành Phật do nỗ lực tu tập của chính Ngài. Như sự hiện thân hoàn toàn của những đức hạnh mà đức Phật đă thuyết dạy, vốn sẵn có trí tuệ sâu xa, cùng với ḷng từ bi bao la, Ngài đă dùng quăng đời quư báu c̣n lại của ḿnh, để phục vụ cho nhân loại, cả bằng (hành động) gương mẫu cũng như lời giáo huấn, không bị chi phối bởi lư do cá nhân nào khác.
Sau 45 năm trường thành công giáo hóa, đức Phật, như tất cả mọi người,không chống lại được luật vô thường tàn ác, và cuối cùng (trước khi) nhập diệt vào năm 80 tuổi, Ngài đă khuyên hàng đệ tử hăy nhận đem giáo pháp của Ngài làm thầy.
Đức Phật là một người như chúng ta, Ngài sinh ra là một người, sống như một người, và đă từ giă cơi đời như một người. Mặc dù là con người, Ngài đă trở thành một nhân vật siêu phàm, nhưng Ngài không bao giờ tự nhận cho ḿnh là Thần linh. Đức Phật đă nhấn mạnh vào điểm quan trọng này, và đă không lưu lại một điều ǵ để bất cứ ai có thể nhầm lẫn nghĩ rằng Ngài là một Thần linh bất tử. May mắn là không có sự thần thánh hóa trong trường hợp của đức Phật. Tuy nhiên, tưởng nên ghi nhận rằng không có một vị giáo chủ nào “thật là vô thần như đức Phật, nhưng cũng không có ai có đặc tính thần linh như Ngài”.
Đức Phật không phải là hóa thân của vị thần Vishnu (3) của Ấn Độ giáo, như một số người tin tưởng, Ngài cũng chẳng phải là đấng Cứu Thế mà (có thể) tự ư cứu rỗi những kẻ khác bằng sự giải thoát của cá nhân Ngài. Đức Phật khuyên dạy các đệ tử của Ngài hăy nương tựa vào chính họ để t́m giải thoát, v́ cả hai sự thanh tịnh hay nhiễm ô (phiền năo) đều tùy thuộc ở chính ḿnh. Để làm sáng tỏ sự tương quan giữa Ngài với các đệ tử cũng như nhấn mạnh đến điều trọng yếu của đức tính tự tin và nỗ lực cá nhân, đức Phật đă dạy một cách rơ ràng là: “Các con nên tự ḿnh cố gắng, c̣n các đức Như Lai (Tathagatas) chỉ là những bậc Thầy”. Đức Phật chỉ rơ con đường và dành cho chúng ta tự ư đi theo con đường đó để đạt tới sự thanh tịnh (giải thoát).
“Nương vào kẻ khác để t́m sự giải thoát là tiêu cực, nhưng dựa vào chính ḿnh là tích cực”. Trông cậy vào người khác có nghĩa là đầu hàng trước nỗ lực của chính ḿnh.
Nhằm khuyên các đệ tử của Ngài nên biết tự chủ, đức Phật đă dạy trong kinh Bát Niết Bàn (Parinibbana Sutta) như sau: “Hăy làm những ḥn đảo cho chính các ngươi, hay làm nột nơi ẩn náu cho chính các ngươi, đừng t́m chốn nương tựa nào ở kẻ khác”. Những lời dạy ư nghĩa này là một sự đề cao con người. Điều ấy cho thấy sự tự cố gắng để thành đạt mục đích của ḿnh là cần yếu như thế nào, cũng như nông nổi và vô ích ra sao khi (chúng ta) t́m sự giải thoát qua các đấng cứu rỗi có từ tâm; cùng mong cầu hạnh phúc hăo huyền ở kiếp sau qua sự chuộc tội của các thần linh tưởng tượng, hoặc do sự lặng lẽ cầu nguyện và những cuộc tế lễ vô nghĩa.
Hơn nữa, đức Phật không giành độc quyền Giác Ngộ (Buddhahood), mà thật vậy, đó không phải là đặc quyền của bất cứ nhân vật đặc biệt nào. Ngài đă đạt tới cái quả vị khả hữu cao nhất của sự toàn thiện mà bất cứ người nào cũng có thể ước mong, và không có tâm ích kỷ của một bậc thầy, Ngài đă chỉ bày con đường đạo chân chính để dẫn đưa (chúng ta) tới đích. Theo giáo lư của đức Phật, ai cũng có thể mong cầu cái quả vị tối thắng của sự toàn thiện đó, nếu họ thực hiện được một sự cố gắng cần thiết. Đức Phật không lên án mọi người bằng cách xem họ như những kẻ tội lỗi xấu xa; nhưng trái lại, Ngài đă cho họ niềm vui, khi dạy rằng bản tâm họ vốn là thanh tịnh. Theo quan niệm của đức Phật,thế giới (con người) không độc ác, nhưng thế giới ấy đă bị lầm lạc bởi vô minh. Thay v́ làm chán nản các đệ tử của Ngài, và dành riêng địa vị cao quư ấy cho chính ḿnh, đức Phật đă khuyến khích và khuyên họ noi gương Ngài, v́ sự Giác Ngộ tiềm ẩn nơi mọi người. Nói cách khác, tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật.
Người có tâm nguyện trở thành Phật gọi là Bồ Tát (Bodhisatta) mà theo nghĩa đen, là chúng sanh đă giác ngộ. Lư tưởng Bồ Tát là tiến tŕnh của một cuộc sống cao đẹp và tinh khiết nhất mà nó được hiến dâng cho thế giới vị kỷ này, đại diện cho điều siêu việt hơn cuộc sống lợi tha và thanh tịnh.
Từ một con người Ngài đă thành Phật và thuyết giảng cho thế giới biết về những tiềm năng phi thường cùng mọi tài năng sáng tạo của con người. Thay v́ đặt trên con người một Thượng Đế toàn năng vô h́nh là đấng chuyên quyền kiểm soát số phận của nhân loại và bảo họ nên khép nép rụt rè trước thần quyền tối thượng, đức Phật đă nâng cao phẩm giá của loài người Chính đức Phật dạy rằng con người có thể thành đạt sự giải thoát và thanh tịnh do nỗ lực (tu tập) của chính ḿnh mà không cần dựa vào một đấng Thần Linh bên ngoài cũng như, khỏi phải nhờ đến các tu sĩ. Chính đức Phật đă giảng truyền cho thế giới ích kỷ (chúng ta) cái lư tưởng cao siêu của sự cứu giúp lợi tha. Ngài đă chống lại tệ đoan phân chia giai cấp suy đồi (ở Ấn Độ) và khuyên dạy về sự b́nh đẳng giữa người và người, cũng như cho con người những cơ hội b́nh đẳng tự giúp ḿnh làm tăng phẩm giá trong mọi tầng lớp xă hội.
Đức Phật tuyên bố rằng cánh cửa thành công và thạnh vượng phải rộng mở cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, dù cao thấp, hiền lương hay tội lỗi, nếu họ quyết tâm cải thiện nếp sống, cầu mong đạt tới sự toàn thiện.
Không phân biệt giai cấp, màu da hay chức vị, đức Phật đă thành lập cho cả hai giới nam lẫn nữ một Giáo Hội dân chủ gồm những người không có gia đ́nh (xuất gia). Đức Phật không cưởng bách tín đồ phải làm nô lệ vào giáo lư của Ngài hay cho chính Ngài, mà đức Phật đă ban cho họ có quyền tự do tư tưởng hoàn toàn.
Bằng lời nói an ủi, đức Phật khuyên giải gia đ́nh có người mất, Ngài chăm sóc bệnh nhân bị bỏ rơi. Ngài giúp đỡ kẻ nghèo không ai ngó tới. Ngài nâng cao đời sống của những tên lường đảo, cải hoán cuộc đời tội lỗi của các phạm nhân. Ngài khuyến khích người yếu đuối, làm đoàn tụ kẻ chia ly, giáo hóa cho người vô minh, soi sáng kẻ mê muội, hướng dẫn người dốt nát, nâng đỡ người thấp hèn, và tăng cao phẩm giá người cao quư.
Người giàu lẫn người nghèo, người hiền lương cũng như tội lỗi thảy đều kính yêu Ngài. Những nhà vua độc tài cũng như chánh trực, các hoàng tử và quư tộc tiếng tăm lẫn vô danh, những nhà triệu phú hào hiệp cũng như keo kiết, những học giả kiêu căng lẫn khiêm tốn, những kẻ ăn xin khốn cùng, hạng phu quét đường bị áp chế, những tên sát nhân hung bạo lẫn gái giang hồ bị khinh miệt - tất cả đều hưởng lợi lạc qua những lời dạy đầy trí tuệ và từ bi của Ngài.
Gương lành cao quư của đức Phật là nguồn gợi cảm cho tất cả mọi người. Nét mặt trầm tĩnh và từ bi của Ngài là một cảnh tượng b́nh an đối trước những cái nh́n đầy thành kính. Bức thông điệp Ḥa B́nh và Từ Bi của đức Phật đă được mọi người đón nhận với niềm hoan hỉ vô biên và là nguồn lợi lạc miên trường cho những ai có duyên may được nghe và thực hành theo giáo lư đó.
Bất cứ nơi nào giáo pháp của Ngài được thấm nhuần, nó lưu lại một ảnh hưởng lâu dài trong tâm tính của mỗi dân tộc. Sự phát triển về văn hóa của mọi quốc gia Phật Giáo là chính nhờ ở giáo lư cao siêu của đức Phật. Thật vậy, tất cả những nước theo Phật Giáo như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cam-pu-Chia, Việt Nam, Lào, Nepal, Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Đại Hàn, Nhật Bản v.v... đều được trưởng thành trên nền tảng của Phật Giáo. Mặc dù hơn 2500 năm đă trôi qua kể từ ngày nhập diệt của đấng Thế Tôn vĩ đại nhất này, nhưng nhân cách độc đáo của Ngài vẫn c̣n gây ảnh hưởng lớn lao đối với tất cả những ai đến muốn để t́m hiểu về Ngài.
Ư chí sắt đá, trí tuệ cao siêu, t́nh thương bao la, ḷng từ bi vô hạn, sự cứu giúp vị tha, hành động xuất gia lịch sử, sự hoàn toàn thanh tịnh và thu hút của nhân cách, những phương pháp đạo đức mà Ngài áp dụng để truyền bá giáo lư, và sự thành công tối hậu của Ngài - tất cả những yếu tố ấy đă khiến cho một phần năm nhân loại của thế giới ngày nay tôn thờ Ngài như vị giáo chủ siêu việt nhất của họ.
Để tỏ ḷng tôn kính chân thành đối với đức Phật, Sri Sri Radhakrishnan (4) viết: “Nơi đức Phật Cồ Đàm (Gautama) chúng ta nhận thấy một bậc thầy trí tuệ của người Đông Phương, Ngài không đứng sau bất cứ nhân vật nào về mặt gây ảnh hưởng trong tư tưởng và đời sống của nhân loại. Mọi người đều sùng kính, tôn Ngài như vị sáng lập một tôn giáo cổ truyền, không kém thâm sâu huyền diệu hơn bất cứ đạo giáo nào khác. Đức Phật thuộc về lịch sử của tư tưởng thế giới, và là di sản chung của tất cả những người đạo đức, bởi v́, xét về mặt trí thức toàn vẹn, phẩm hạnh trang nghiêm, và giác ngộ tinh thần, Ngài chắc chắn là một trong những nhân vật vĩ đại nhất của lịch sử”.
Trong quyển “Ba Nhân vật Vĩ đại nhất của Lịch Sử” (The Three Greatest Men in History), nhà học giả H.G. Wells (5) ghi nhận như sau: “Nơi đức Phật, các bạn thấy rơ ràng Ngài là một nhân vật giản dị, chân thành, một ḿnh tự lực phấn đấu cho ánh sáng - một nhân vật sống, chứ không phải là thần thoại. Ngài đă truyền lại cho nhân loại một bức thông điệp đầy tánh cách phổ biến. Nhiều tư tưởng hiện đại cao đẹp nhất của chúng ta đều phù hợp gần gũi với giáo lư ấy. Đức Phật dạy rằng mọi khổ đau phiền năo đều do ḷng vị kỷ gây ra. Con người trước khi có thể trở nên thanh tịnh, nó phải chấm dứt cuộc sống theo những giác quan hoặc cho riêng chính ḿnh. Rồi nó mới trở thành một bậc đại nhân. Đức Phật, qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, 500 năm trước Chúa Giê-Su, đă dạy con người đức tính vị tha. Trong vài phương diện, đức Phật gần gũi hơn với chúng ta và đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Đức Phật cũng tỏ ra sáng suốt hơn Chúa Giê-Su, trong sự quan tâm phục vụ cho con người chúng ta, và ít mơ hồ hơn đối với vấn đề trường tồn bất tử của kiếp nhân sinh”.
Thánh Hilaire ghi nhận: “Đức Phật đă thuyết giảng cái gương mẫu toàn hảo của mọi điều đạo đức... và trong đời sống của Ngài không thấy có một vết nhơ nào”. C̣n ông Fausboll tán dương Ngài như sau: “Càng hiểu biết Ngài, tôi càng kính mến Ngài”.
Một người tín đồ khiêm tốn của đức Phật sẽ nói: “Càng hiểu biết Ngài, tôi càng quư mến Ngài. Càng quư mến Ngài, tôi càng hiểu biết Ngài”.
(trích từ cuốn Phật Giáo Yếu Lược)
CHÚ THÍCH CỦA DỊCH GIẢ
Về chữ viết tắt dùng dưới đây, P là Pali (tiếng Ba Lỵ); S là Sanskrit (tiếng Phạn) và Jap. là Japanese (Nhật Ngữ).
1. THÍCH CA: Danh từ Hán-Việt dịch âm chữ Sakiya (tiếng Ba Lỵ). Sakya (Phạn) Shaka (Nhật). Tên một bộ tộc thuộc ḍng họ của đức Phật, sinh sống tại nước Ca Tỳ La Vệ (Ba Lỵ: Kapilavatthu) ngày xưa, (nay là xứ Nepal) vào thế kỷ thứ 6 trước tây lịch.
2. NEPAL: Vương quốc độc lập thuộc miền nam Á Châu gần núi Hy Mă Lạp Sơn (Himalayas) ở vùng biên giới đông bắc Ấn Độ. Thủ đô: Kathmandu.
3. VÍT-NU: Tiếng Hin-đi (Ấn Độ) là Vishnu. Tên gọi một trong ba vị thần chính của Ấn Độ Giáo (Hinduism); hai vị thần kia là Phạm Thiên (Brahma) và Si-Va (Shiva).
4. SARVEPALLI RADHAKRISHNAN: Sinh ngày 5 tháng 9 năm 1888 tại Tiruttani, tiểu bang Andhra Pradesh (đông nam Ấn Độ). Là nhà giáo dục kiêm chính trị gia Ấn Độ. Ông làm giáo sư dạy triết tại đại học Calcutta, Ấn Độ từ năm 1921 đến năm 1931; giáo sư dạy môn tôn giáo và đạo đức Đông Phương tại trường đại học Oxford (Anh Quốc) từ năm 1936 đến 1952. Ông giữ chức viện trưởng đại học Delhi (thủ đô Ấn Độ) năm 1953 đến 1962; và được bầu làm tổng thống Ấn Độ từ năm 1962 đến 1967. Ông qua đời tại Madras (miền nam Ấn) ngày 16 tháng 4 năm 1975. Những tác phẩm chính của ông: Triết Học Ấn Độ, 2 cuốn xuất bản năm 1923-1927; Triết Lư Áo Nghĩa Thư ấn hành năm 1924; Tôn Giáo Đông Phương và Tư Tưởng Tây Phương in năm 1939 v..v..