NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA NI TRONG ĐOÀN THỂ TĂNG-GIÀ

 

Khải Tuệ

 

 

 

 

1. Bát kính pháp và vấn đề thời đại:

Có thể nói Đức Thế Tôn là một nhà cách mạng tuyệt vời, vấn đề mà đến thế kỷ 20 thế giới mới bắt đầu  nhận ra và kêu gọi giải phóng phụ nữ th́ ngài đă làm từ cách nay hai mươi lăm thế kỷ. Với con mắt tuệ giác của ḿnh, Đức Thế Tôn đă thấy được vai tṛ và khả năng của người phụ nữ. Bằng nhiều cách khác nhau, người ta có thể đi đến cùng một mục đích. Nam giới bằng năng lực và cá tính mạnh mẽ của ḿnh để hướng đến mục đích th́ nữ giới cũng bằng năng lực và bản chất dẻo dai họ đạt được mục đích như vậy. Bỏ qua phương cách, con đường mà nh́n về mục đích th́ họ b́nh đẳng như nhau. Cái nh́n trí tuệ của đức Như Lai thấy được điều đó. Tuy nhiên, do hoàn cảnh khắt khe của xă hội Ấn độ thời bấy giờ cũng như xu hướng của các thời đại nói chung đă tạo cho ngài một sức ép khi quyết định cho đoàn thể nữ giới xuất gia vào đạo giải thoát. Ba lần đức A nan thỉnh cầu ngài từ chối mà không có lư do chính đáng, v́ lẽ dĩ nhiên ngài từng dạy rằng giáo lư giải thoát, giác ngộ của ngài không giới hạn cho bất cứ thành phần nào, tất cả đều có thể tu tập và giác ngộ, điều làm cho ngài e ngại đó là lực cản thành kiến của quần chúng xă hội. Trong khi người ta xem nữ giới chỉ như là một sản phẩm cung cấp con người, chỉ có năng lực sinh sản và phục tùng mà bỗng nhiên trở thành một thành phần cao cả trong xă hội, là học tṛ nối gót đức Đạo sư, có thể chứng thánh đắc quả th́ thật là khó chấp nhận được. Thành kiến xă hội là một hàng rào vô cùng khắt khe. V́ vậy, dù thấy được năng lực tâm linh của phụ nữ đức Thế Tôn cũng không thể làm ngơ trước thành kiến này. Với vai tṛ của bậc đạo sư, ngài phải phương tiện dùng thế gian pháp đưa ra tám pháp cung kính trọn đời Tỳ kheo ni phải tuân thủ như là một điều kiện để thách thức Bồ đề tâm của quư bà.

1. Tỳ kheo ni 100 tuổi hạ thấy Tỳ kheo mới thọ giới phải đứng dậy xá chào, hỏi han, mời ngồi.

2. Không được mắng nhiếc Tỳ kheo

3. Không được nêu tội Tỳ kheo, Tỳ kheo được nêu tội Tỳ kheo ni

4. Thọ đại giới phải cầu đủ đại tăng

5. Nếu phạm Tăng tàn phải hành sám Ma-na-đỏa giữa hai bộ đại Tăng

6. Mỗi nửa tháng đến trong tăng cầu giáo thọ

7. Không được ở chổ không có Tỳ kheo mà an cư

8. An cư xong phải đến trong Tăng cầu ba việc thấy, nghe, nghi.

 

Sau khi cung kính lănh thọ tám kính pháp này, bà Mahapajapati và năm trăm cung nữ xuất gia thành đệ tử Phật và giáo hội Phật giáo Tỳ kheo ni bắt đầu từ đó.

Nh́n chung, tám pháp này thể hiện lên tinh thần đoàn kết ḥa hợp của đạo Phật, Ni tăng là một bộ phận trong hàng ngũ Tăng già, là một cá thể trong cùng một thực thể chung. Điều thứ nhất trong tám pháp cung kính nói lên tinh thần khiêm hạ mà mọi thành viên trong Tăng cần phải có, bởi lẽ nói đến Tăng già của Phật giáo là nói đến đoàn thể sống vô ngă, một vị Tỳ kheo ni 100 tuổi hạ xá chào và mời Tỳ kheo một hạ ngồi là một nét đẹp đặc sắc để tất cả ai nh́n vào cũng cảm động và dễ dàng được cảm hóa bởi hành động này. Và dĩ nhiên thói thường, một người trẻ tuổi không thể không cung kính người lớn hơn ḿnh, nói ǵ đến bậc ni trưởng, cả hai đều cung kính nhau, nhường nhịn nhau, một sự giao tiếp mang đậm màu sắc khiêm hạ, nhún ḿnh, đó là bản sắc văn hóa giao tiếp đặc trưng của nhà Phật.

Kính pháp thứ hai và thứ ba là tinh thần, là bản thể thanh tịnh, ḥa hợp của tăng. Một đoàn thể ḥa hợp gọi là tăng th́ dù ở trong trường hợp nào cũng không được lên tiếng mắng nhiếc, nêu lỗi của người huống ǵ là đối với Tăng, với bạn hữu, đại huynh, sư trưởng của ḿnh.

Từ kính pháp thứ tư đến kính pháp thứ tám là thủ tục tác thành Ni tăng sự. Tỳ kheo ni phải tỏ ra đúng vai tṛ khất sỹ, cầu pháp của ḿnh, để dẹp bỏ ḷng kiêu mạn, để bào ṃn cái tự ngă vốn dĩ rất ngông nghênh. Hơn nữa, vào thời đó, giáo đoàn ni tăng thành lập sau khi đạo Phật h́nh thành năm năm, mà khi đạo Phật có mặt cũng chính là khi giáo đoàn đại tăng có mặt. Bởi sự non trẻ của giáo hội Ni tăng nên dĩ nhiên là phải đến đại Tăng cầu Ni tăng sự.

Xét về lịch sử h́nh thành Bát kính pháp, đức Thế tôn đă nh́n thấu suốt được vấn đề, bên cạnh lí do một bối cảnh xă hội trọng nam khinh nữ, thân phận của bà Di mẫu, Da du, các công chúa, tiểu thư hoàng tộc, cung phi mỹ nữ thân thích của Phật cũng là một lư do, họ là những người con vua cháu chúa, xuất thân từ ḍng hào kiệt trâm anh, họ đă từng là mẹ, là d́, là vợ của thái tử, họ đă từng đóng vai tṛ chỉ dạy, bảo ban, có công với thái tử Siddhatta, th́ họ không lư ǵ không làm vậy với đệ tử của Phật, cả đến những vị đă đắc thánh quả. Nhưng “tứ chúng xuất gia đồng quy thích thị”, đạo của đức Thế tôn không phân biệt thân sơ, giáo đoàn của ngài có đầy đủ bốn giai cấp từ Bà la môn, Sát đế lợi, Câu xá, Thủ đà la tất cả khi đến với đạo của ngài đều trở nên b́nh đẳng. Bát kính pháp này là giới luật, là hàng rào để quư bà tiến tu, giữ ḿnh đúng mức một ḍng Thích nữ t́m cầu đạo giải thoát, bỏ lại ngoài cổng tam quan của ni viện những thói quen mang tính thiên chức trước đây. Bên cạnh đó, bậc thầy vĩ đại của chúng ta đă tinh tế nhận ra một vấn đề thuộc về tâm lư học, ngài muốn có sự cách biệt trong ḥa khí giữa Tăng bộ và Ni bộ, nữ giới hay thiên về sự quá đà, thân quá sinh lờn, ỷ lại và sơ quá sinh kiêu ngạo, tự phụ, tự tung tự tác, coi ta đây độc lập không cần ai dắt dẫn. Tăng già là một đoàn thể ḥa hợp, các thành viên trong tăng là thành viên của gia đ́nh lớn, cần phải khích lệ, hỗ trợ, bổ túc cho nhau, nếp sống dù ở môi trường nào cũng không ngoài quy luật duyên sinh của tục đế. Một lư do khác nữa là, dẫu thế nào đi nữa về mặt xă hội, phụ nữ ở thời đại nào cũng chịu sự chi phối của thành kiến, v́ là “phái yếu” nên việc sinh hoạt độc lập một ḿnh trong một xă hội luôn xem phái yếu là món hàng, là tṛ chơi của đàn ông th́ thật là bất tiện. Cho nên, để duy tŕ nếp sống phạm hạnh, Ni tăng cần có sự ngoại hộ của đại tăng, đó cũng là một lư do mà Phật đưa ra pháp bát kính này.

Nói tóm lại, đành rằng theo lời di huấn của đức Đạo sư, nếu sau khi ngài diệt độ những pháp và luật nào không c̣n phù hợp với căn cơ, phong tục tập quán của địa phương, làm phương hại đến mục đích truyền tŕ chánh pháp th́ chúng đệ tử có thể ngồi lại hội ư mà bỏ đi, một giá trị cần phải thay đổi khi và chỉ khi nó không c̣n tác dụng nữa và thay bằng một cái khác có giá trị hơn, nếu không được như vậy th́ không có lư do ǵ để từ bỏ nó. Với những lư do và ư nghĩa đă bàn ở trên, dẫu ở thời đại nào, hoàn cảnh nào, bát kính pháp và giáo hội ni tăng vẫn luôn đồng hành. Nói đúng hơn, Bát kính pháp không thể, chưa thể, và sẽ không bao giờ có thể là bất hợp lư, lỗi thời đối với hàng đệ tử sống đúng con đường của đạo Phật, sống đúng với tinh thần vô ngă, vị tha, ḥa hợp hiếu kính. Tự thân của Bát kính pháp không hề có khiếm khuyết, tỳ vết ǵ cho nên việc đ̣i bỏ bát kính pháp không thể và không bao giờ có thể thành công được.

Tuy nhiên, một số vị Tỳ kheo ni dấy lên phong trào đ̣i bỏ bát kính pháp tại nước ngoài là một tiếng chuông cảnh tỉnh trong tăng già. Thứ nhất, đó là do chưa thấu hiểu hết được nội dung và ư nghĩa của bát kính pháp, chưa nhận chân được ư hướng của đức Phật về các pháp này. Thứ hai, đó là dấu hiệu cho thấy nếp sống của một số thành viên trong tăng già có vấn đề, vấn đề đó là sự thiếu tôn trọng lẫn nhau, không muốn tôn trọng người mà chỉ muốn người tôn trọng ḿnh, không thấy được đức tính khiêm cung nhũn nhặn là một nét đẹp, một pháp tu. Thêm vào đó, một số cá nhân các vị Tỳ kheo tỏ ra thiếu tôn trọng Tỳ kheo ni, tự xem ḿnh là đối tượng mà các tỳ kheo ni tất nhiên phải cung kính, mà quên rằng bản thân ḿnh cũng phải tự dẹp bỏ cái tự ngă chật hẹp, ích kỷ của ḿnh, quên đi một quy luật tất yếu rằng nếu muốn được người khác tôn kính th́ trước tiên cần phải biết tôn trọng người. Là thành viên trong một tổ chức, là anh em trong một gia đ́nh mà chưa đả thông được cho nhau, chưa tôn trọng, ḥa ái với nhau th́ làm sao dám tin đó là một đoàn thể ḥa hợp, làm sao dám tin người đó có thể ứng xử tốt được với người ngoài, làm sao thấy được cuộc sống trong tăng, thấy đoàn thể tăng là từ ḥa hiếu kính theo đúng phương châm của đạo Phật. Một gia đ́nh trên không yêu thương dưới, không tôn trọng dưới, dưới không yêu kính trên th́ đó là dấu hiệu của sự tan ră, là kém gia phong, và dĩ nhiên không có lư do ǵ mà thắng được các thế lực ngoại đạo khi họ rắp tâm xen vào quấy phá.

Trở lại vấn đề nam, nữ giới và việc b́nh đẳng, bất b́nh đẳng. Chúng ta từng biết, đứng về phương diện vật chất cũng như tinh thần, trong sự phân biệt tương đối của thế gian, hễ có một người no tất nhiên phải có người khác đói, có kẻ được gọi là giàu ắt có kẻ được gọi là nghèo, một người tài giỏi thông minh ắt có người khác vụng về dốt nát, có sự chiến thắng vinh quang ắt có sự thất bại ê chề, có cái gọi là vui th́ tất nhiên có cái buồn ngược lại. Nói chung, đó là những cặp phạm trù tất yếu đối lập của thế gian. Tuy nhiên, đứng về phương diện tâm linh, người viết muốn nói đến địa hạt chứng ngộ, th́ không có sự tương đối, không có những mặt trái thuộc thế gian, niềm vui hạnh phúc thuộc phương diện tâm linh không thiết lập, không dựa trên nỗi thống khổ của người khác, đó là niềm vui tuyệt đối cả cho ḿnh và cho kẻ chung quanh. Vâng, chỉ có ở địa hạt tâm linh con người mới có được sự tuyệt đối. Đạo Phật là tôn giáo đưa người đến địa hạt tâm linh, ở đó không có luật thay thế, luật bù trừ, không phải một đoàn thể này mạnh lên để lấn lướt, đè bẹp đoàn thể khác lụi tàn mà mỗi thành viên của thực thể đều phải biết tự nỗ lực để bước vào địa hạt tâm linh, phải tự hoàn thiện để cùng nhau gánh vác công việc cho ngôi nhà chung, làm cho đạo pháp ngày một trở nên hưng thịnh, đoàn thể ni tăng hưng thịnh điều đó không có nghĩa là đại tăng do vậy mà yếu đi, lu mờ, cũng như đại tăng vững mạnh không có nghĩa là ni tăng phải bị lu mờ, mà đó là tín hiệu vui, là dấu hiệu báo cho biết rằng đạo pháp vững mạnh.

 

2. Khả tính tâm linh của phụ nữ và vị trí của ni tăng trong giáo hội tăng già:

Cũng như khoa học phát minh rằng, chỉ số IQ của phụ nữ bằng nam giới, cách đây hai mươi lăm thế kỷ, đức Thế tôn cũng đă từng thấy được rằng, đạo mà ngài đă chứng được dưới gốc cây bồ đề th́ phụ nữ cũng có thể chứng đắc được, những vần thơ sau đây được trích ra từ Trưởng lăo ni kệ của nữ tôn giả Somà thốt lên khi bà hàng phục được ác ma và chứng đắc thánh quả là những minh chứng rành rành về điều này:

Nữ tánh chướng ngại ǵ

Khi tâm khéo thiền định

Khi trí tuệ triển khai

Chánh quán pháp vi diệu

Ở tất cả mọi nơi

Hỷ lạc được đoạn tận

Khối tối tăm mù mịt

Đă bị làm tan nát

Hỡi này kẻ ác ma

Người đă bị bại trận.

Hay như vần kệ của nữ tôn giả Vimalà:

Mọi khổ ách đoạn tận

Cả cơi trời cơi người

Quăng bỏ mọi lậu hoặc

Ta mát lạnh tịch tịnh.

C̣n có rất nhiều, rất nhiều những vần thơ khí phách, hùng hồn, chiến thắng vinh hiển các ác ma để bước vào thánh quả được ghi chép rất nhiều trong Trưởng Lăo Ni Kệ thuộc Tiểu bộ kinh để nói lên sự thật rằng giáo lư giác ngộ giải thoát của đức Phật không ngoại trừ bất cứ chúng sanh nào, tất cả đều tùy theo căn cơ mà lănh hội, và cũng để thể hiện rơ ra bản chất rằng giáo lư ấy là một giáo lư khế lư khế cơ. Một kỹ nữ, một bà quả phụ mất chồng mất con… hay một hoàng hậu hoàng phi, công chúa, tiểu thư… đến với Phật giáo cũng nhận được nguồn pháp tâm linh cao quư. Giáo đoàn ni chúng không phải là những phụ nữ mong muốn thoát ly gánh nặng gia đ́nh và đời sống phục vụ cam go mà v́ họ nhận được nơi đạo Phật ḍng chảy tâm linh gần gũi với bản chất họ. Họ là những phụ nữ dám bỏ cái b́nh thường của nhi nữ để đến với cái phi thường của đại trượng phu, bỏ đi cái yếu tính ủy mị, nặng t́nh để dơng mănh một con đường chí khí cô thân, và duy chỉ có mục đích tâm linh tối thượng mới thôi thúc họ dám từ bỏ tất cả và nuôi dưỡng họ sống trọn đời ḿnh trong nếp sống phạm hạnh thanh bần. Lịch sử đă chứng minh cho thấy được điều đó: không phải đoàn thể ni tăng là gồm những người đau khổ tuyệt vọng, hay trắc trở t́nh duyên như cô Lan, nàng Kiều… t́m đến một niềm an ủi của đoàn thể, mà ở đó là có những phụ nữ rất có khả năng về mặt tâm linh, như Bhaddha Kundalakerin trước kia là môn đệ của Kỳ na giáo, luôn đi khắp nơi để tranh biện ủng hộ cho giáo phái này, bà đă gặp Xá lợi phất và sau đó gặp Phật, với nhân cách chói sáng của ngài, Phật đă độ cho bà đắc A la hán quả khi bà vẫn c̣n là một nữ cư sĩ, đức Thế tôn đă trực tiếp làm phép nhập đạo cho bà như phép truyền thống cho một vị Tỳ kheo: “thiện lai, Tỳ kheo ni”. Trường hợp bà Bhaddhà kàpilàni, một phụ nữ dám từ bỏ đời sống gia đ́nh đang hạnh phúc, dám xoay mối t́nh chồng vợ thành t́nh pháp lữ, nàng đă cùng chồng là Kassapa xuất gia để cả hai cùng xả bỏ nhau, xả bỏ tất cả để hướng ḿnh vào đời sống chánh đạo. Một trường hợp khác nữa là bà Dhammadinnà vợ của Visàkha, một Ưu bà tắc đệ tử Phật, cũng là một bằng chứng về một bậc ni lưu với ư chí hùng lực kiên định, đầy khả năng tâm linh và năng lực hoằng hóa. Sau khi được chồng đưa đến ni viện để xuất gia theo chân Phật, bà đă nỗ lực tu tập ngày đêm và đă chứng đắc A la hán quả. Về sau, bà đă trở về thuyết pháp, tranh biện với chồng về những vấn đề Phật học, nội dung cuộc tranh biện này đến tai đức Phật, Thế tôn bảo với Vissakha rằng nếu vấn đề đó ông đem hỏi ngài th́ ngài cũng trả lời như bà đă. Lời của tỳ kheo ni Dhammadinna được xem như chính lời đức Phật, và được liệt vào Phật ngôn (Bhuddhavacana), sự kiện rất thường xảy ra khi một trưởng lăo đệ tử Phật nào đó thuyết pháp mà lời ấy được đức Phật tán thán và chuẩn duyệt. Đây không phải là trường hợp duy nhất  lời nói của một sư ni được xem là Phật ngôn.

Quay lại vấn đề khả năng tâm linh của người phụ nữ được đặt ra ở trước, không ai không công nhận và chính kim khẩu đức Thế tôn thừa nhận rằng phụ nữ có đầy đủ khả năng về mặt tâm linh có thể chứng thánh đắc quả mà các ví dụ trên là những gương sáng làm minh chứng hùng hồn cho điều này, bởi một chân lư bất di bất dịch là “Phật tánh không phân chia Nam Bắc” nói như cách nói của Lục tổ Huệ Năng, hay: tất cả chúng sanh đều có thể làm Phật như tinh thần của kinh điển đại thừa.

Về những trọng nghiệp làm chướng ngại thánh đạo, đă là con người trong chốn bụi hồng ai chẳng có những tính xấu chẳng hạn như tham, sân, si, nếu nam giới có vẻ nặng về tham sân th́ nữ giới thay sân của nam bằng si vậy. Và những thiện nghiệp để đến gần thánh đạo th́ hai giới cũng sở hữu các yếu tính tương ứng khác hẳn nhau. Nếu trí tuệ, từ bi luôn song hành trong đạo Phật, trí tuệ được đề cao ở nam giới th́ bên cạnh yếu tố trí tuệ đó, đức tính từ bi hướng về nữ giới, bởi vậy mà về mặt lấy t́nh thương nhiếp hóa chúng sanh của đạo Phật, h́nh tượng bồ tát Quán Thế Âm biểu hiện đức tính từ bi tượng trưng là h́nh phụ nữ. Và bên cạnh yếu tính can đảm, ư chí dũng lực của nam giới th́ phụ nữ được quyền sở hữu đức tính nhẫn nại, nhu ḥa, bao dung, tha thứ. Bên cạnh đức uy nghiêm khí phách của nam giới th́ nữ giới lấy tính nhũn nhặn khiêm cung làm yếu tính cho ḿnh… Nói chung, bởi v́ vũ trụ vạn vật bắt đầu bằng lưỡng nghi, đă có nam ắt phải có nữ, không có thế giới duy có nam hay duy có nữ (mà có chăng là một thế giới không có sự phân biệt nam nữ), mỗi giới có lĩnh vực riêng, phận sự riêng, và cả hai cùng có những mặt trái như nhau tương ứng. Bởi vậy, mặt trái của ḷng từ bi là phụ nữ phải sở hữu tính si ái ủy mị; ngược với sự nhẫn nhục nhu ḥa là phiền năo chấp trước, cố chấp khư khư; mặt trái của sự khiêm tốn là thái độ nhút nhát ỷ lại, cố xem ḿnh là phải cần lệ thuộc dựa dẫm vào một người nào khác mới sống nổi… chính những điểm này đă nhốt phụ nữ vào một góc riêng của cuộc sống trong mọi thời đại, nó đă kéo phụ nữ tŕ trệ, hạ đẳng như những thành kiến mà lịch sử xă hội đă từng dành cho, và cũng chính những tính yếu này mà tôn giáo nghi ngờ khả năng tâm linh của họ (nam giới cũng có những mặt trái dành riêng cho nam giới). Tuy nhiên, chỉ cần một chữ xả của đạo Phật sẽ đoạn tận các nhược điểm trên của phụ nữ và thay vào đó là những khả tính đầy hứa hẹn về tâm linh.

Vâng, bậc thầy tâm linh của chúng ta đă thấy rơ được điều này, và bên cạnh đó, đạo của ngài, tôn giáo của ngài, được thiết lập ra trực tiếp cho và v́ bốn chúng đệ tử, thuộc cả hai giới xuất gia và tại gia, bốn chúng nầy là sứ mệnh, là rường cột để gánh vác trọng trách trong việc giữ ǵn ngôi nhà chung, truyền tŕ chánh pháp luân lưu trong thế gian. Vai tṛ trực tiếp của ni tăng trong vấn đề này là tận dụng hết những chức năng thiên bẩm của ḿnh để góp sức vào cho mục đích chung bên cạnh phần tu tự lợi.

Phàm đă là người xuất gia ĺa bỏ gia đ́nh để cất bước đến chân trời cao rộng, thay gấm vóc lụa là bằng mảnh áo nâu sồng, thay niềm hạnh phúc cá nhân, gia đ́nh bằng ư hướng t́m cầu trí tuệ giải thoát, tâm ư và h́nh nghi khác người thế tục và mục đích phận sự duy nhất là “thiệu long Phật chủng”. Ni tăng là một thành phần trong giáo hội tăng già dĩ nhiên cũng có một phận sự không ngoài phận sự chung của người xuất gia.

Bàn về vấn đề Ni tăng không phải chỉ hạn hẹp trong vài ḍng như trên là đủ, trong phạm vi bài viết này người viết chỉ xin đưa ra hai điều trên, tuy không phải là vấn đề căn bản nhưng là đề tài rất đáng chú ư gần đây, đặc biệt là vấn đề bát kính pháp. Đức Thế tôn đă từng dạy, tất cả chúng sanh đều là chủ nhân của chính ḿnh, chúng sanh nào tự gieo nhân th́ chúng sanh ấy tự hưởng quả, không có một quyền lực nào có thể ban phước giáng họa, không ai có thể sắp đặt số phận cho ḿnh. Tất cả chúng sanh đều phải tự quyết định lấy đời ḿnh, là phàm hay là thánh, là cao thượng hay là hạ liệt… tất cả đều cần phải bắt đầu từ những hành động, những nghiệp nhân của chính họ. Vị Tỳ kheo ni trong giáo đoàn Ni tăng Phật giáo cũng vậy, không cần phải lên tiếng để kêu gọi b́nh đẳng đến với ḿnh, mà cần phải bắt đầu từ những hành động, những nghiệp nhân của chính ḿnh, chấm dứt tất cả những tệ đoan của một nhi nữ thường t́nh để vươn lên, chứng minh cho xă hội thấy được năng lực của ḿnh, hiến trọn đời ḿnh vào sự nghiệp giải thoát tâm linh và hoằng dương chánh pháp. Một khi đă hoàn toàn là những đại trượng phu xứng đáng giữa trời người th́ ngần ấy vị trí tự đến một cách tương ứng.

 

Khải Tuệ

(Nguồn: Tập san Pháp Luân)

 

 

 

 

 

 

 


Bài vở đóng góp xin gửi về: baivochanhphap@gmail.com
Copyright © 2009 Chanh Phap Newspaper
Last modified: 10/05/11