VU LAN NGHĨ VỀ ĐẤNG SANH THÀNH
HT Thích Tín Nghĩa
Trong nếp sống t́nh cảm đầy đạo đức của con người Đông phương, đặc biệt là Việt Nam và Trung Hoa, nếu nhắc nhở đến một thứ Ân sâu, Nghĩa nặng, cao cả, bao la, th́ đó là Ân Nghĩa Sanh Thành. Ca dao, tục ngữ thường nhắc nhở:
Đă làm người ở trong trời đất,
Ai là không Cha Mẹ sanh thành.
Có Cha Mẹ mới có ḿnh,
Ở sao trọn Hiếu, trọn T́nh làm con.
Trong một xă hội trải qua quá nhiều tang tóc, đau thương như Việt Nam chúng ta, khi bao nhiêu đứa con yêu tổ quốc ra đi v́ hoàn cảnh, xa ĺa đấng sanh thành, th́ thấy sự mất mát và trống vắng trong tâm khảm của chúng ta vô cùng to lớn như trời đất, biển cả. Đó là một thứ Ân đức đầy tha thiết và đậm đà làm sao. Bởi v́:
Công Cha như núi Thái sơn,
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một ḷng thờ Mẹ, kính Cha,
Cho tṛn chữ Hiếu, mới là đạo con.
Và cứ thế, t́nh yêu thương của Cha mẹ cứ lớn dần lên măi khi Người (cha me) đă chịu trăm đắng ngh́n cay để tạo ra chúng ta và lo cho chúng ta nên người. Ân đức ấy cứ tỏa ra và tỏa ra măi cho đến khi Người buông xả, nhắm mắt vĩnh viễn để xa hẳn chúng ta.
T́nh sâu nghĩa nặng dường ấy, thử hỏi: Chúng ta đă báo đáp được những ǵ? Hay chỉ là: những lời khóc mướn thương vay, chúng ta nuôi Cha mẹ tính ngày tính tháng?
Hay chỉ là: Thuộc vào những phường vô ơn, bạc nghĩa? Những kẻ chỉ biết đam mê vào mồi vinh hoa phú quư, bă lợi danh, để đánh mất hết nhân tính của chính chúng ta?
Và, cho dù ḷng người có điên đảo, đảo điên đến thế nào chăng nữa, Ân đức Sanh thành vẫn một mực khoan dung độ lượng như hải hà. Ân đức của đấng sanh thành mà ngàn đời ấy, chỉ biết đem hết sức lực, và máu huyết của ḿnh để nuôi dưỡng đàn con mà không một lời than thở và không bao giờ nghĩ đến chuyện đáp đền.
V́ vậy, thân phận của chúng ta hôm nay, dù ở đâu trên quả địa cầu nầy, đặc biệt là con dân nước Việt xa xứ, tạm dung nơi xứ lạ quê người, th́ Ân sâu Nghĩa nặng ấy đă trở thành hai phương trời cách biệt; đó là niềm đau xót tận tâm can của chúng ta. Trong nỗi đảo điên của vận nước, trong lối điêu ngoa của thế thái nhân t́nh, th́ h́nh ảnh sanh thành dưỡng dục lại hiện về như đôi bàn tay ḥa ái, như nụ cười đôn hậu, khoan dung.
Ôi! Cao cả làm sao! Cả một bầu trời thánh thiện đang che chở cho chúng ta. Dù cho non nước đổi dời, dù biển cạn núi ṃn, nhưng, Ân nghĩa sanh thành vẫn muôn đời bất diệt. Dù xuất gia hay tại gia cũng đều là Phật tử cả. Bởi v́ Phật tử tức là:
- Tùng Phật khẩu sanh, tùng Pháp hóa sanh, đắc pháp phần Phật, cố danh Phật tử đúng mức, th́ phải là người con chí hiếu rồi: có nghĩa là không thể và không bao giờ quên hay làm ngơ đi cái ân thiêng liêng mà cha mẹ, ông bà tổ tiên đă tạo dựng cho chúng ta thành thân, nên người.
Trong kinh Vu Lan, đức Phật răn dạy cho hàng đệ tử của ngài phải: . . . "đền đáp ân đức sanh thành dưỡng dục . . ."., Phật pháp cảnh giác rằng thân người khó được mà dễ mất. Khó được mà được là nhờ có Cha mẹ sanh ta ra tức là nhờ có ơn sanh thành, dễ mất là c̣n là nhờ có Cha mẹ nuôi nấng khôn lớn tức là nhờ có ơn dưỡng dục.
Cho nên, Phật tử là con của Phật th́ phải biết và vâng lời theo đoạn kinh được rút ra trong Tăng Nhất A Hàm, Đại tập, tập hai, trang 601 có đoạn nói về ơn Cha, nghĩa Mẹ như sau:
- “Có hai việc phải làm cho hàng phàm phu được đại công đức thành đại quả báo, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, đó là phụng sự cha mẹ được đại công đức, thành đại quả báo khi cúng dường vị Bồ Tát chỉ c̣n một đời nữa là làm Phật. V́ vậy, các thầy Tỳ kheo, hăy luôn luôn nhớ và hiếu thuận với cha mẹ”.
- "Các thầy Tỳ kheo, có hai người mà các thầy hướng dẫn làm điều thiện đi nữa cũng vẫn chưa trả ơn được, đó là Cha mẹ. Nếu có kẻ vai trái cơng cha, vai phải cơng mẹ đến ngàn vạn năm, cung phụng đủ cả đồ ăn, đồ mặc, đồ nằm và thuốc thang, để cha mẹ tiểu tiện đại tiện trên đôi vai ḿnh đi nữa, cũng chưa trả hết công ơn cha mẹ. Các thầy phải hiểu rằng ơn cha mẹ nặng lắm, bồng bế nuôi nấng, dưỡng dục đúng lúc, không để lỡ cơ hội, làm cho ta thấy được nhật nguyệt, v́ thế mà biết ơn ấy rất khó trả. Do đó, các thầy phải phụng dưỡng cha mẹ, luôn luôn hiếu thuận cho đúng lúc, không để lỡ mất cơ hội".
Đoạn kinh nầy, nhân mùa an cư kiết hạ, đức Phật trực tiếp răn dạy cho hàng xuất gia. Bởi v́, đức Phật nhận thấy ơn cha, nghĩa mẹ sâu dày như thế, người xuất gia không phải v́ nại cớ chỉ lo làm lành lánh dữ, hướng dẫn tu niệm vẫn chưa đủ. Một khi cha mẹ cần đến ḿnh, nếu ḿnh không đáp ứng th́ đừng xuất gia c̣n hơn. Dưới đây là một đoạn nhỏ rút ra từ kinh Trung A Hàm, Đại tập, tập một, trang 500.
Ngài Trí Húc cũng dẫn giải theo lời dạy của Phật được rút ra từ trong Tục tạng, tập 35, trang 154b với ư như sau:... "Có hai vị Phật sống ở trong nhà các người, đó là Cha và Mẹ ..."
Bởi v́ theo trong Tục tạng, tập 59, trang 213a, đứng về Giới luật, đức Phật dạy: ... "Bởi v́ ngay Giới luật Thanh văn đi nữa, nếu thấy cha mẹ bị bắt, không cố chuộc ra, là phạm đệ thất tụ ..."
Cho nên, là đệ tử Phật dù xuất gia hay tại gia đều phải phụng dưỡng cha mẹ.
Hàng tại gia th́ lo làm lụng, phụng dưỡng cha mẹ vật chất có được theo khả năng của ḿnh. Song song với sự phụng dưỡng cha mẹ bằng cách hướng dẫn song thân tu niệm theo Phật pháp mà c̣n phải phụng dưỡng cha mẹ theo như kinh Vu Lan Bồn, trong Tạp A hàm, ở Đại tập, tập hai, trang 22 có đoạn hướng dẫn như sau:
..." ...Như pháp khất thực mà phụng dưỡng cha mẹ, th́ phước đức rất lớn ..."
Ngày đức Phật c̣n tại thế, chính ngài đă trực tiếp dạy cho vua Ba Tư Nặc về hiếu hănh của ngài. Ngài nhấn mạnh cho nhà vua biết qua lời kinh Tăng Nhất A hàm, trong Đại tập, tập hai, trang 637 rằng:
Chính ngài cũng là thành phần của loài người, cha là Chân Tịnh, mẹ là Ma Gia.. Ân đức của cha mẹ vô cùng trọng yếu, nên khi ngài trở về hoàng cung vấn an phụ vương cũng như dẫn dắt phụ vương và hoàng thân quốc thích tại Ca Tỳ La Vệ theo chánh pháp. Khi ngài về gần đến kinh đô, ngài nghĩ: Ân cha mẹ rất nặng, t́nh dưỡng dục cao dày, ngài không thể để cho phụ hoàng nghinh tiếp; gần giáp mặt mà ngài phải phi thân lên bảy bước. Theo ư ngài Tông Mật, là đức Phật không để cho phụ vương lạy trực tiếp với đức Phật
Tương truyền rằng: Khi đức Phật và Tăng đoàn theo đức Phật về thăm phụ vương và hoàng cung, đức Phật cho Tănng đoàn đi trước. Phái đoàn vừa vào hoàng cung th́ tất cả quần thần đều ra nghinh đón và đảnh lễ chư Tăng trong đó có phụ vương. Chư Tăng dừng bước trước đền rồng, phụ hoàng ngơ ngác nh́n quanh quất chẳng thấy con ḿnh (đức Phật) đâu, Tịnh Phạn Vương đang ̣nn phân vân, tức th́ đức Phậtt đă dùng thần thông đứng sau lưng phụ hoàng, với hai tay choàng chặt thân phụ hoàng không cho vua cha chấp tay đưa lên vái đức Phật. Với ư nầy, chúng ta thấy ngay đức Phật thể hiện trọn vẹn một người con chí hiếu đối với phụ thân đúng mức.
Đức Phật nhận ra công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ rất cao thâm, nên tring kinh Tăng Nhất A Hàm, Đại tập, tập hai, trang 749 có nói: Khi đức Phật nhập Niết bàn, ngài vẫn đề cao Phụ Mẫu Lực, mà không xử dụng Thần Thông Lực, và Trí Huệ Lực.
Gương hiếu hạnh của ngài đă thể hiện qua h́nh ảnh ở trong kinh Tăng Nhất A Hàm, Đại tập, tập hai, trang 822 và 823, có đoạn nói như sau:
..."...Khi ngài nghiên vai gánh quan tài kế mẫu là bà Đại Ái Nhạo Tỳ Kheo, lúc bà nhập diệt. Chính đức Phật đă từ chối sự làm thay của chư thiên. Ngài dạy: Cha mẹ sanh thành, làm con lợi ích rất nhiều, ân nuôi dưỡng không thể báo đáp. Ngài nghiên vai gánh một góc, ba góc kia ngài bảo các em là tôn giả Nan Đà, tôn giả A Nan và tôn giả La Vân cùng khiêng đến tận chỗ hỏa táng. Chính ngài đích thân hỏa táng kế mẫu...".
Cùng với việc trong Tăng Nhất A Hàm và Tạp A Hàm ở trong Đại tập, tập hai, trang 703 và trang 704, cùng với trong kinh Địa Tạng, đều có ghi đức Phật lên cung trời Đao Lợi để thuyết pháp cho thân mẫu nghe.
Đức Phật dạy: Dù xuất gia hay tại gia, ai có hiếu tức là đă giữ giới. Ngài thường day:Hiếu là Giới. V́ Lục đạo chúng sanh là Cha Mẹ. Chính điều nầy đă chỉ dẫn cho chúng ta thấy: Hiếu Hạnh là Giới Luật vậy.
Hàng xuất gia, đức Phật dạy kỷ từng ly từng tư như vậy.
Hàng tại gia đức Phật phải biết phụng dưỡng cha mẹ ngoài vấn đề vật chất, khi hai đấng sanh thành c̣n tại thế. Khi cha mẹ và ông bà tổ tiên đă khuất bóng cùng với lục thân quyến thuộc th́ phải làm sao, một khi mùa Vu lan Bào hiếu lại trở về?
Trước tiên là sắm lễ vật the khả năng và hạnh nguyện để dâng cúng Thập phương chúng Tăng nhân mùa Tự tứ. Trước là nhờ ân đức của Đại chúng sau ba tháng an cư kết hạ tịnh tu để chú nguyện. Nhờ oai lực của chư Tăng mà sự cúng dường của chúng ta có được phước báu vô cùng. Trong kinh Vu Lan Bồn có dạy rằng:
..."...Ai được hiến cúng liệt vị Thánh Tăng tự tứ như vậy, th́ cả cha mẹ cùng với bà con, được tiêu trừ các thống khổ trong ba đường dữ, tức thời giải thoát, cơm áo tự nhiên. Cha mẹ hiện tại th́ được hạnh phúc, sống lâu trăm tuổi, cha mẹ bảy đời th́ được sanh lên chư thiên, tự tại hóa sanh vào trong thiên giới, phước lạc vô cùng...".
Chúng ta cúng Phật, chư Tăng chú nguyện, cha mẹ hiện tai cũng như nhiều đời cũng được phước lạc vô biên.
Tóm lại, Phật tử là người chí hiếu. Như trên đă nói: Cái đức Từ Hiếu nghĩa là Từ và Hiếu. Phật giáo quan niệm tất cả chúng sanh trong lục đạo thay phiên nhau làm cha, làm mẹ, làm anh, làm em và làm vợ, làm chồng, làm thân bằng quyến thuộc của nhau. Điều nầy trong kinh Duyên Mệnh Địa Tạng Bồ Tát có đoạn nói: ..."...chuyển hồi lục thú, sanh sanh phụ mẫu, thế thế huynh đệ..."
Nghĩa là: Quanh quẩn lục thú, kiếp kiếp làm cha mẹ lẫn nhau, đời đời làm anh em quyến thuộc...
Như vậy, chắc chắn rằng theo nghiệp dẫn th́ có người lên, kẻ xuống; do đó, chúng ta phải cầu nguyện. Không phải chỉ có cầu nguyện trong mùa Vua Lan, mà phải thường cầu nguyện cho đều. Không những thế, chính ḿnh phải thực hành theo lời Phật dạy để mà tu tập cho bản thân. Bản thân có trong sạch th́ lời cầu nguyện cảm ứng có phần linh diệu hơn, mặc dầu trong kinh chỉ dạy là thoát nạn đau khổ trong ngạ quỹ là do v́ h́nh ảnh của mẹ ngài Mục Kiền Liên đă làm Ngạ quỹ. Thật ra, cha mẹ, thân bằng, lục thân quyến thuộc của chúng ta không chịu tu tập theo chánh pháp th́ sẽ bị đọa khắp cả trong ba đường dữ chứ không riêng ǵ cảnh giới ngạ quỹ.
Trong kinh Tăng Nhất A hàm, Đại tập, tập hai, trang 6000, đức Phật đă dạy:
..."...Ai biết trả ơn th́ người ấy đáng kính. Người ấy ơn nhỏ c̣n không quên huống chi ơn lớn. Người ấy dẫu ở cách ta ngàn dặm hay trăm ngàn dặm mà vẫn không xa ta. V́ lẽ, các thầy Tỳ Kheo, ta luôn luôn ca tụng người biết trả ơn. Kẻ nào không biết trả ơn th́ ơn lớn cũng quên, huông chi ơn nhỏ. Kẻ ấy sẽ không gần ta, ta không gần kẻ ấy. Kẻ ấy dù mặc pháp y và ở ngay bên trái hay bên phải của ta đi nữa, cũng vẫn xa ta...".
Những lời dạy thống thiết của đức Phật đối với hàng đệ tử của ngài, cho dù cha mẹ không nghèo khổ, chúng ta cũng phải có bổn phận lo nghĩ đến ân đức sanh thành, huống nữa cha mẹ đang cơn nghèo đói. Hàng Phật tử phải đúng pháp mà cúng dường và phụng dưỡng. Người cúng dường có phước báu mà người thọ vật thực cũng được an lạc.
Người học Phật muốn có một cuộc sống mà phẩm hạnh được cao khiết tức là phải biết đền trả bốn ân nặng (tứ trọng ân). Đó là: Ân Tam Bảo, ân Cha mẹ, ân Quốc gia Xă hội, và ân Chúng sanh. Hàng Phật tử nói riêng và con người nói chung mà không biết, không nghĩ tới bốn ân nầy th́ không c̣n là Phật tử, không c̣n là con người nữa; cũng từ đó, cộng đồng xă hội cũng khó phát triển được trong sự tin yêu và hỗ trợ cho nhau. Là con người sống trong cộng đồng xă hội mà vong ân, bội nghĩa th́ chẳng khác nào như là một loài thú sống nơi hoang dă, cắn xé nhau, lừa đảo với nhau th́ cũng giống với loài kiến ăn cá, cá ăn kiến; nghĩa là chỉ chờ cơ hội sa chân thất thế là làm hại lẫn nhau, chẳng lợi lạc ǵ cho ai. Đối với hạng người ấy, người đời có thơ rằng:
Những người bất hiếu tử,Nhung nhúc sống bằng thừa,
Không nghĩ ơn cha mẹ,
Khác nào trùng, cây khô...
Để tránh sự gieo rắc khổ hăi cho nhai, con người phải có một tâm niệm biết ơn, nhất là đệ tử Phật. Làm sao chúng ta xem người bên cạnh ḿnh là một người bạn tốt, hiền lành, đôn hậu được trong khi họ lại là kẻ bất hiếu, bất mục với hai đấng sanh thành của họ. Cha mẹ đă không thương tưởng, không biết chăm sóc, cung phụng th́ c̣n nói ǵ về vấn đề phụng sự quốc gia dân tộc; phục vụ đồng bào xứ xở. Cái ân lớn nhất và gần nhất là cha mẹ mà đă không đền đáp th́ trong xă hội sẽ không bao giờ có chuyện hy sinh cho người, hy sinh cho đại cuộc, hy sinh cho từ thiện với tinh thần vô vị lợi.
Muốn yêu ai, muốn thương nước nhớ ṇi, muốn nói đến cội nguồn, muốn nói đến t́nh đồng bào, nghĩa dân tộc th́ không ngoài mấy chữ hiếu đễ, hiếu hạnh,... phải thuộc ḷng. Thiếu những cái đó, bản thân không ra ǵ, gia đ́nh sẽ bất ổn, đất nước sẽ đau thương, khổ lụy, nhân loại mất đi hạnh phúc của cuộc sống.
Xă hội được an b́nh là nhờ con người biết nhớ ơn, từ đó bông hoa ái quốc sẽ nở rộ, hoa từ bi sẽ ngát hương; thế giới ḥa b́nh, hùng mạnh là nhờ ở ḷng biết thương yêu nhau, biết nhớ ơn nhau chứ không phải là nhờ sức mạnh vũ khí tối tân. Cho dù một dân tộc nào đó có yếu kém về canh tân khoa học đi chăng nữa, nhưng biết giự ǵn nếp sống đạo đức, thuần lương th́ quốc gia ấy vẫn ḥa b́nh và an lạc như thường.
Kẻ nào không biết ơn đều thuộc loại bất hiếu. Đă bất hiếu rồi th́ bất trung, bất nghĩa, bất nhơn, vô liêm sỉ và suốt đời sẽ đem lại những nỗi bất hạnh cho cha mẹ, cho thân bằng quyến thuộc và cho cà nhân loại.
Để kết thúc bài nầy, chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa là: Ngày Vu lan là ngày Báo Hiếu, là ngày đề cao: Hiếu là Giới. Ngài Trí Húc đă dẫn giải rơ ràng theo kinh Ma Ư, cho thấy đức Phật dạy, được rút ra từ Tục tạng, tập 35, trang 252b như sau:
- "Giữ Giới chính là để hiếu thuận báo ơn cha me".
Ngay trong Bồ Tát Giới kinh cũng đă dạy rơ:
- "Quả báo của tội phá giợi nặng nhất, đến nỗi trong hai hay ba kiếp không c̣n nghe được danh từ Cha Mẹ hay Tam Bảo".
Con người bất hiếu th́ luôn luôn ở trong ba đường dữ: địa ngục, ngạ quỹ và súc sanh. Chúng ta cha mẹ, chúng ta phải làm ǵ khi song thân c̣n tại thế hay đă qua đời. Hiếu thuận, biết ơn cha mẹ tức là giữ giới. Đă giữ giới tức là hiếu sanh chứ không hiếu sát. Đó là đệ tử Phật.
Đức Phật dạy:
- "Gặp thời không có Phật, khéo phụng thờ Cha mẹ tức là đă thờ Phật vậy".