TĂNG LY CHÚNG TĂNG TÀN
Khải Tuệ
Một bậc đế vương xuất hiện, muôn ngh́n quân sĩ rạp ḿnh tung hô vạn tuế, một thế chuyển ḿnh của sư tử chúa sơn lâm, muôn loài cầm thú kinh sợ thu ḿnh thần phục. Bậc đế vương uy danh lừng lẫy khi quanh vị ấy có đầy đủ cung vàng điện ngọc, ấn triện, thế lực và văn vơ bá quan, khi tất cả ĺa xa vị ấy th́ vị ấy chỉ c̣n là một người b́nh thường, b́nh thường như bao người dân thường khác. Chúa tể sơn lâm chỉ là chúa tể khi nó ngự trị trong núi rừng, trong thâm sơn cùng cốc của muôn ngàn dă thú, khi đă bị đưa đến chốn thị thành th́ sư tử chỉ c̣n biết quẩn quanh cùng một khối căm hờn trong củi sắt của thảo cầm viên và ăn những thức ăn do con người mang đến như bao loài thú hèn mọn khác.
Sự vật trên thế gian này vốn là như vậy, một thực thể chỉ là một thực thể mang tên này khi nó được kiện toàn bởi những nhân duyên, những chánh báo và y báo tạo nên nó, mỗi khi đă thoát ra khỏi những điều kiện này th́ ắt hẳn không c̣n mang tên đó nữa, bởi thiếu điều kiện, thiếu nhân duyên, nói đúng hơn là thiếu hay lăng quên khả năng pḥng hộ và thiếu sự pḥng hộ từ cộng đồng. Xuất phát từ ư nghĩa đó, cổ đức trong nhà Phật đă có một câu nói mà trong giới xuất gia ai cũng biết đó là “hổ ly sơn hổ bại, tăng ly chúng tăng tàn”.
Tăng, nói đầy đủ là tăng-già xuất phát từ chữ sangha của tiếng Phạn, thường được xuất hiện để chỉ cho đoàn thể xuất gia đệ tử đức Phật từ bốn người trở lên, sống ḥa hợp và thanh tịnh đúng như giới luật mà đức Phật đă chế định để hướng mục tiêu của ḿnh đến đời sống giác ngộ và giải thoát phiền năo khổ đau. Một vị tỳ-kheo chỉ được xem là thành viên của Tăng già khi hội đủ các điều kiện của một thành viên xuất gia đệ tử của đức Phật, chấp nhận đời sống không gia đ́nh và hướng đời ḿnh đến sự nghiệp giải thoát, dẹp trừ cái tôi và của tôi để khép ḿnh vào tăng đoàn, xây dựng nên bản thể thanh tịnh và ḥa hợp của tăng già. Xuất phát từ những ư nghĩa và điều kiện đó nên, cổ đức trong nhà thiền đă ví von bằng h́nh ảnh con hổ ĺa rừng, cho thấy sự thất bại của một tỳ-kheo khi chấm dứt mối liên hệ với tập thể tăng già, quay lưng lại với bản thể ḥa hợp và thanh tịnh như pháp như luật của tăng. “Tăng li chúng tăng tàn” ắt hẳn ở đây chỉ cho thành viên tăng rời khỏi khối ḥa hợp và thanh tịnh của đại chúng, ắt hẳn sẽ thất bại, sẽ biến đổi, sẽ tàn lụi bởi mất đi khả năng pḥng hộ của một thành viên tăng và mất đi sự pḥng hộ từ chúng tăng.
Vào thời đức Thế Tôn c̣n tại thế, khi hệ thống tu viện chưa được áp dụng rộng răi như bây giờ, các tỳ-kheo sống theo phương thứ khất thực và ngủ dưới gốc cây độc cư nhàn tịnh, nhưng không phải v́ thế mà độc lập tách biệt khỏi chúng tăng, trái lại, tinh thần chúng tăng, tức tinh thần thanh tịnh và ḥa hợp vẫn luôn được các tỳ-kheo tôn trọng và tuân thủ một cách nghiêm túc, dù đi đâu, ở đâu, hành đạo như thế nào cũng luôn giữ một mối liên hệ mật thiết với Tăng ít nhất là qua h́nh thức bố-tát mỗi nửa tháng một lần. Vào những 15 không trăng và 15 sáng trăng, các tỳ-kheo nhóm họp theo tinh thần thanh tịnh và ḥa hợp của chúng tăng để đọc tụng giới luật và nhắc lại những lời phật dạy, sám hối sửa sai cho nhau, mối liên hệ đó là sợi dây vô h́nh nhưng vững chắc, gắn kết tất cả thành viên xuất gia đệ tử Phật trở thành một khối thống nhất đi đúng đường, đúng mục đích xuất gia mà đức Phật đă dạy.
H́nh thức bố-tát đó cộng với pháp an cư là hai phương thức duy tŕ mối liên hệ của tăng. Mặc dù có duyên khởi là các tỳ-kheo dừng lại một trú xứ tránh du hành trong nhân gian để khỏi giẫm đạp côn trùng, pháp an cư đă trở thành một h́nh thức rất hữu ích trong việc duy tŕ mối liên hệ với tăng. Suốt mấy tháng mùa mưa, chúng tăng tập trung lại một chỗ, hạn chế sự đi lại đến tối thiểu và dành toàn bộ thời gian cho việc tu tập, ôn lại những lời dạy của đức Thế Tôn và thực hành pháp ấy dưới sự hộ tŕ của chúng tăng. H́nh thức sinh hoạt tu học cùng đại chúng như vậy là h́nh thức tối ưu trong việc học tập kinh nghiệm, hoàn thiện bản thân, một pháp hành cần phải thực tập để rút ra kinh nghiệm th́ thay vào đó sự lịch nghiệm của nhiều người trong tăng chúng đưa đến lời khuyên đúng đắn thay v́ tự thân phải dọ dẫm từng bước một. Quan trọng hơn, h́nh thức tu học cùng đại chúng là cơ hội tốt nhất để một cá nhân tăng bào ṃn dần đi bản ngă của ḿnh, sống trong một môi trường của đại chúng, các thành viên đều tự gọt giũa ḿnh để ḥa vào cái chung của đại chúng, mà cái ǵ thuộc đại chúng là của tất cả mà cũng không của riêng ai. Như vậy, pháp bố tát và an cư là hai h́nh thức điển h́nh biểu hiện bên ngoài của đoàn thể_tăng, tuy nhiên, bản thể tăng chỉ được thành tựu khi và chỉ khi nó có ư nghĩa đoàn thể ấy sống ḥa hợp và thanh tịnh đúng với mục đích và lư tưởng của một đoàn thể tỳ-kheo đệ tử Phật xuất gia sống đời phạm hạnh để thành tựu quả vị giải thoát cuối cùng và rao giảng pháp ấy làm lợi lạc cho tha nhân.
Tăng li chúng tăng tàn ắt hẳn không thể là sự quy kết, một thành viên tăng chỉ xa ĺa đại chúng là bị tàn lụi, bị hủy diệt mà đúng hơn là thành viên đó rời khỏi sự thanh tịnh và ḥa hợp của chúng tăng, thành viên đó, không tôn trọng sự thanh tịnh và ḥa hợp, nói cách khác là không giữ ḿnh trong bản thể của tăng, không góp ḿnh xây dựng nên bản thể thanh tịnh ḥa hợp của tăng, không sống đúng như giới như luật, như chánh pháp mà Thế Tôn dạy bảo cho đời sống của tỳ kheo, th́ vị ấy dù có sống trong tăng già cũng không thể nào ḥa hợp, không thể nào thanh tịnh hợp với bản thể của tăng và dĩ nhiên không thể tạo nên thể thanh tịnh và ḥa hợp với chúng tăng đúng pháp, kẻ ấy tự ḿnh quay lưng lại với bản thể của tăng, quay lưng lại với thể thanh tịnh và ḥa hợp, mất đi khả năng pḥng hộ bởi thiếu giới luật và mất đi sự pḥng hộ của chúng tăng bởi đă mất sự liên hệ với bản thể của tăng già.
Chính v́ ư nghĩa của tăng và thành viên tăng như vậy nên giáo pháp đức Phật không hề mâu thuẫn khi ngài khuyến khích hạnh độc cư nhàn tịnh của các tỳ-kheo và xem đó là hạnh lành tối thắng để một tỳ-kheo đạt đến mục đích tối thượng của ḿnh, bởi sự độc cư đó không độc lập khỏi chúng tăng, không quay lưng với bản thể thanh tịnh và ḥa hợp của chúng tăng mà trái lại nó góp phần cho khối thanh tịnh của tăng già thêm càng thanh tịnh, kết quả tu tập ấy là mục đích chung của tất cả tăng già. Một đoàn thể được gọi là tăng khi đoàn thể ấy sống đúng với bản chất thanh tịnh và ḥa hợp của tăng, đúng với mục đích chung của chúng tăng, chứ không chỉ là h́nh thức của một đoàn thể nhóm họp lại trong cùng một trú xứ nhưng không cùng nhau xây dựng nên được một bản thể thanh tịnh. Và lời khuyến khích sau đây của đức Phật kêu gọi các tỳ-kheo lên đường lưu truyền chánh pháp v́ vậy cũng nằm trong sự nối kết của tăng, trong mục đích chung của tăng già và đời sống như vậy là đời sống ḥa hợp với bản thể của tăng. «Này các Tỳ-kheo, các ngươi hăy đi, v́ sự lợi ích, v́ sự an lạc của nhiều người; v́ ḷng thương tưởng thế gian; v́ sự ích lợi, sự an lạc của chư thiên và nhân loại. Chớ đi với hai người cùng một đường.» (P. Caratha, bhikkhave, cārikaṃ bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussanāṃ. Mā ekena dve agamittha).
Xuất phát từ bản thể thanh tịnh và ḥa hợp, mối liên hệ giữa cá nhân và tăng đoàn nới rộng phạm vi không gian, dù có đi đâu ở đâu, là thành viên của trú xứ nào đi nữa th́ cũng đều được nhiếp thủ thành thành viên của chúng tăng, của một thể thống nhất cùng một mục đích chung của đạo pháp.
Tăng tàn trong ư nghĩa thiếu đi khả năng pḥng hộ và mất lực pḥng hộ từ tăng già khi một tỳ-kheo xa rời đại chúng với một mục đích không cùng mục đích của tăng, v́ một lợi ích không nằm trong lợi ích mà tăng già hướng đến, không v́ sự an lạc của nhiều người, không v́ ḷng thương tưởng đến thế gian và cũng không v́ con đường độc cư nhàn tịnh để cần cầu quả bồ-đề vô thượng. vị tỳ-kheo ấy sống buông ḷng theo dục lạc hay theo những mục đích đem đến lợi lạc cho cái tôi và cái của tôi. Vị ấy ắt hẳn mất đi sự pḥng hộ bởi không khép ḿnh trong pháp và luật của phật chế định, mất lực pḥng hộ của tăng già bởi chấm dứt sự liên hệ với tăng già, bởi không thể nhiếp ḿnh trong bản thể thanh tịnh ḥa hợp của tăng.
Với ư nghĩa của bản thể tăng như vậy, một cá nhân không khép ḿnh bằng một cái tâm mềm mại nhu nhuyến nhờ công phu tu tập bào ṃn bản ngă và từ chối sự cộng tác tạo thành thể ḥa hợp với chúng tăng đúng pháp đúng luật đúng lời Phật dạy, sự tách biệt đó dù với một lư do ǵ đi nữa cũng đă chứng minh sự thất bại của một thành viên tăng. Bởi một cá nhân chỉ được xem là thành viên của tăng già khi sống cùng một hướng và tạo thành một thể với tăng. Trên cùng bản thể đó và duy nhất nhờ vào bản thể đó tăng già đă trở thành Tăng Bảo trong ba ngôi tam bảo Phật Pháp Tăng mà trời người quy y tôn ngưỡng. Một bản thể quư báu và trang nghiêm như vậy, ắt hẳn một kẻ có trí không v́ sự bất măn riêng tư mà quay lưng tự ḿnh ĺa bỏ, và ắt hẳn một người con Phật chơn chánh mang trong ḿnh hoài bảo trùng hưng tam bảo tại thế gian lại từ chối xây dựng trang nghiêm thể ḥa hợp thanh tịnh của hàng Tăng Bảo.