TÂM RỖNG RANG THANH TỊNH
ẮT AN ĐỊNH NỘI TÂM
Tịnh Minh soạn dịch
Sau khi chuyển vận bánh xe chánh pháp, Đức Thế Tôn lui về Vương-xá và an trú tại Trúc Lâm. Phụ thân Ngài, quốc vương Tịnh Phạn, phái chín sứ thần đến gặp Ngài, thỉnh Ngài về cung, nhưng cả chín đều xuất gia theo Thế Tôn, chứng quả A-la-hán và không về hoàng triều nữa. Cận thần Ka-la U-đa-di (Kàla Udàyi) là người thứ mười, được quốc vương tin yêu nhất, nhận lănh sứ mạng cung thỉnh Thế Tôn nhưng cũng không về. U-đa-di khoác áo Sa-môn và cũng chứng quả A-la-hán.
Một hôm, thấy thời tiết êm dịu, khí hậu mát mẻ, rất thuận lợi cho Thế Tôn và đệ tử về thăm hoàng triều, U-đa-di đảnh lễ Đức Thế Tôn và bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn, đă đến lúc Thế Tôn nên về thăm phụ hoàng, thân quyến và dân thành Ca-tỳ-la-vệ. Tất cả đang mong chờ Ngài.
Đức Thế Tôn chấp thuận, và cùng với hàng ngàn môn đệ tháp tùng, Ngài lên đường về thăm thành đô vào một ngày nắng vàng rực rỡ.
Về tới hoàng thành, Ngài và phái đoàn được hoàng thân quốc thích và bá quan văn vơ long trọng đón tiếp trong tiếng khóc cười chứa chan hoài cảm. Sau đó mọi người đều được tắm ḿnh trong cơn mưa pháp thanh b́nh. Quốc vương Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-ha-ba-xà-ba-đề đều nhận ra yếu chỉ, liền quy y Phật và thọ tŕ giáo pháp.
Ngày hôm sau, trong khi cả nhà đang nô nức tổ chức hôn lễ cho hoàng tử Nan-đà (Nanda) th́ Đức Thế Tôn đến khất thực. Ngài đặt chiếc b́nh bát của Ngài trong tay Nan-đà và chúc chàng gặp nhiều may mắn. Sau đó Ngài đứng lên, ra đi mà không quay nh́n chiếc b́nh bát. Với ḷng tôn kính Như Lai, Nan-đà không dám nói ǵ, cứ lặng lẽ ôm bát theo sau Ngài.
Bấy giờ có người đến báo với Ja-na-pa-đa Ka-ly-a-ni (Janapada Kalyàni), vị hôn thê của Nan-đà, rằng:
- Công nương ơi, Đức Thế Tôn đă đem Nan-đà đi rồi, Ngài cố t́nh cướp đoạt chàng đấy!
Ja-na-pa-đa Ka-ly-a-ni giật ḿnh hoảng hốt, cắm đầu cắm cổ chạy theo Nan-đà với hai hàng nước mắt ṛng ṛng, và lớn tiếng gọi:
- Hoàng tử ơi, về ngay nhé!
Âm vang của nàng đă làm choáng váng đầu óc và rung động tâm can Nan-đà, nhưng Đức Thế Tôn vẫn lặng lẽ dẫn chàng về tu viện. Sau đó Ngài hỏi:
- Nan-đà, em muốn làm Sa-môn không?
V́ ḷng kính trọng Đức Thế Tôn, Nan-đà đáp đại:
- Em rất muốn, thưa tôn huynh.
- Vậy th́ hay quá! Hăy ở lại đây tu học với đại chúng.
Và thế là sau ba ngày về thăm kinh thành Ca-tỳ-la-vệ, Đức Thế Tôn đă hóa độ Nan-đà khoác áo Sa-môn.
Đến ngày thứ bảy, Da-du mặc y phục sang trọng cho La-hầu-la (Rahula) rồi ôm con vào ḷng dạy rằng:
- Con à, hăy đến gặp vị Sa-môn kia, cha của con đó! Hăy nói con là thái tử ḍng Thích Ca, chẳng bao lâu nữa con sẽ nối nghiệp hoàng gia, trị v́ thiên hạ và mở mang xă tắc. Cha ơi, xin cha trả lại di sản cho con, cái di sản mà đă một thời nằm trong tay của cha đó!
Chờ cho Đức Thế Tôn thọ trai xong, La-hầu-la đến đứng bên Ngài thỏ thẻ:
- Hạnh phúc thay cho con đứng trong ṿng tay ấm áp của cha.
Thản nhiên, Đức Thế Tôn hồi hướng công đức, đứng lên và ra đi. Thái tử La-hầu-la lẽo đẽo theo sau Ngài, chốc chốc lại nói:
- Thưa cha, xin cha trả lại di sản cho con.
Đức Thế Tôn vẫn im lặng đếm từng hơi thở theo nhịp bước thiền hành. Và La-hầu-la cũng theo Ngài từng bước về đến Trúc Lâm. Sau đó Đức Thế Tôn chợt nghĩ:
- Cái di sản phụ tử mà La-hầu-la t́m kiếm hẳn là mang sẵn mầm mống suy tàn, hủy diệt. Ta sẽ trao cho La-hầu-la cái di sản cao quư mà ta đă đạt được dưới cội Bồ đề. Ta sẽ giáo dục La-hầu-la trực nhận cái di sản siêu việt đó.
Đức Thế Tôn cho mời trưởng lăo Xá-lợi-phất đến, nói:
- Xá-lợi-phất, hăy giúp ta giáo dục La-hầu-la trở thành Sa-môn.
Và thế là La-hầu-la được nhận vào giáo hội, c̣n quốc vương Tịnh Phạn th́ đau khổ vô vàn. Ngài bày tỏ nỗi niềm đau buồn, thương nhớ với Đức Thế Tôn và ngỏ lời thỉnh nguyện:
- Bạch Thế Tôn, từ nay về sau xin Ngài đừng nhận ai vào giáo hội nếu không có sự đồng ư của cha mẹ họ. Đừng để họ phải đêm đêm trằn trọc khóc thầm như trẫm đă từng héo hon thương nhớ con cháu của trẫm.
Đức Thế Tôn chắp tay với nụ cười chứa chan thông cảm.
Sau đó Ngài về Xá-vệ và an trú tại Kỳ Viên. Bấy giờ Nan-đà hơi bất măn, bộc lộ những điều phiền năo ẩn tàng của ḿnh với một số huynh đệ:
- Các thầy biết đấy, tôi chán quá! Cuộc đời tu hành đôi lúc thấy đơn điệu và tẻ nhạt làm sao! Chắc tôi phải về lại với nếp sống gia đ́nh.
Nghe lời than trách, Đức Thế Tôn cho gọi Nan-đà đến hỏi và được thầy ấy đáp:
- Thưa tôn huynh, h́nh ảnh cực kỳ diễm lệ của Ja-na-pa-đa Ka-ly-a-ni cứ ngày đêm hành hạ tâm trí em. Anh ơi, anh là tôn huynh của em, xin anh hăy cho em về! Em về th́ phụ hoàng vui, mẫu hậu vui, vợ em vui, hoàng thân quốc thích vui, bá quan văn vơ vui, quốc dân đồng bào vui, cả anh cũng vui nữa… hà-hà!...
Chẳng nói chẳng rằng, Đức Thế Tôn nắm tay Nan-đà, bằng thần thông diệu lực, Ngài đưa sư đến tầng trời thứ Ba mươi ba. Và trên đường đi, Đức Thế Tôn chỉ cho Nan-đà thấy một con khỉ đói gớm ghiếc, đă bị lửa cháy sém tai sém mặt và mất cả đuôi, đang ngồi trơ vơ trên một gốc cây đen nám giữa cánh đồng xám xịt tro than. Khi lên đến tầng trời thứ Ba mươi ba, Ngài lại chỉ cho Nan-đà thấy 500 tiên nữ duyên dáng thướt tha trong những bộ xiêm y rực rỡ đang lui tới hầu hạ thiên chủ Đế Thích (Sakka). Sau đó Ngài hỏi:
- Này Nan-đà, cô vợ mà ông cho rằng yểu điệu thục nữ đó so với các tiên nữ ở đây ai đẹp hơn ai?
- Bạch Thế Tôn, dung nhan của Ja-na-pa-đa Ka-ly-a-ni chỉ đẹp hơn con khỉ khốn khổ giữa cánh đồng trơ trụi dưới kia chứ không thể nào sánh bằng nhan sắc của các tiên nữ ở đây.
- Hay thay, Nan-đà! Ta đoán chắc rằng ông cũng sẽ được những cô tiên nữ như thế.
- Bạch Thế Tôn, nếu Ngài bảo đảm như vậy th́ con nguyện tinh tấn tu hành, nhiếp tâm chánh hạnh.
Sau đó Đức Thế Tôn và Nan-đà trở về Kỳ Viên.
Chẳng mấy chốc, đại chúng hay tin và một số Sa-môn nhạy miệng châm biếm:
- Sư Nan-đà, bào đệ của Đức Thế Tôn, nay hạ thủ công phu, an tâm lập mệnh chỉ v́ muốn chiếm đoạt 500 tiên nữ chứ chẳng phải hảo tâm thiện chí ǵ. Tội nghiệp và khốn khổ lắm thay!
Nan-đà vẫn an nhiên tự tại, nỗ lực tiến tu, toàn tâm toàn ư trên bước đường vun trồng đạo nghiệp; và cuối cùng thầy chứng quả A-la-hán.
Một hôm Nan-đà đến hầu chuyện với Đức Thế Tôn, cung kính đảnh lễ Ngài và bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn, con xin trả lại lời hứa của Ngài trước kia. Con không quan tâm đến 500 tiên nữ nữa.
- Hay thay, Nan-đà! Đức Thế Tôn nói. Thầy nào sống rỗng rang thanh tịnh, cần mẫn chuyên tu, nhứt tâm quán niệm; thầy ấy sẽ sớm diệt trừ vọng tưởng điên đảo, thành tựu trí tuệ siêu việt và đạt đến cứu cánh niết bàn.
Thấy Nan-đà mỗi ngày một thêm linh hoạt, vui tươi, tướng hảo; nhất là không hề than phiền hay tỏ vẻ khó chịu trước những lời châm chọc thái quá, một số Sa-môn hơi nông nổi kia đến đảnh lễ Đức Thế Tôn và bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn, thầy Nan-đà dạo này trông thật là đường đường tăng tướng, dung mạo khả quan, lại thuyết giảng thao thao, quán thông kinh điển; khác với tâm trạng bi quan thất vọng trước kia.
Đức Thế Tôn mỉm cười trong giây lát, đoạn Ngài nói:
- Này các thầy Tỳ-kheo, cá tính của Nan-đà trước kia cũng giống như ngôi nhà vụng lợp, nhưng nay th́ cá tính ấy đă giống như ngôi nhà khéo lợp. Kể từ lúc gặp tiên nữ, thầy ấy đă quyết chí tu hành, nhứt tâm thiền quán, và tất nhiên là thầy ấy đă thành tựu công hạnh, thầy ấy đă chứng quả A-la-hán.
Ngài đọc kệ:
Như ngôi nhà vụng lợp,
Nước mưa len lỏi vào,
Tâm không tu cũng vậy,
Tham dục rỉ rả vào.
Như ngôi nhà khéo lợp,
Nước mưa không thấm vào,
Tâm khéo tu cũng vậy,
Tham dục khó lọt vào.
(PC. 13, 14)