SỰ THÀNH CÔNG CỦA MỘT TÔN GIÁO
KHÔNG THỜ TRỜI
Tác giả: Cerf William
Hoang Phong dịch và giới thiệu
(tiếp theo và hết)
Dung ḥa giữa vô thần và tâm linh
Toàn bộ cấu trúc kỳ diệu về tâm linh của Phật giáo đă bám rễ thật sâu vào các nền văn hoá Ấn độ và Á châu và không thể tách rời ra được. Tuy thế nó vẫn hàm chứa tất cả các khía cạnh tân tiến cần thiết để thu hút người Tây phương. Cái «phẩm tính» cao hơn hết của Phật giáo – mà các nhà thần học Thiên chúa giáo tranh nhau lên án như là một thứ sơ hở tệ hại nhất – chính là sự khiêm tốn. Thật ra cũng chẳng cần phải biết ai đă đứng ra sáng tạo cái thế giới này và rồi nó sẽ đi về đâu : triết học siêu h́nh chỉ là một sự tự biện hoàn toàn vô ích. Đức Phật chỉ cần nêu lên một con đường giải thoát cho mỗi con người là đủ. Phẩm tính thứ hai của Phật giáo là khả năng hội nhập vào bất cứ bối cảnh tín ngưỡng nào. V́ lẽ không quan tâm đến Trời cho nên Đức Phật chỉ ngỏ lời với con người mà thôi, nhất là đối với những người vô thần và cả với những người đă tỏ ra nghi ngờ về hiệu quả các thánh lễ rửa tội cho họ (hai nhóm người này đều rất đông trong thế giới Tây phương). Tinh thần bao dung của Phật giáo được thiết lập trên căn bản hài ḥa, không loại trừ bất cứ một nền tín ngưỡng mang tính cách thần khải nào cả, và tinh thần đó đă giúp cho Phật giáo phát triển trên những mảnh đất thấm nhuần Do-thái-giáo – Thiên-chúa-giáo. Ngoài ra, dù cho con đường bát chánh đạo có tỏ ra là một thứ kỷ cương quá khắt khe đi nữa, th́ nó cũng chẳng nghĩa lư ǵ so với những giáo điều làm nền tảng cho đạo Thiên chúa. Thật thế, các giáo điều của Thiên chúa giáo đang phải cưỡng lại một cách khó khăn trước ngưỡng cửa của thiên kỷ thứ III...
Tự nhận là người Phật giáo có nghĩa là tu tập theo một tôn giáo không thờ trời, hoà đồng giữa vô thần và tâm linh, tự chọn lấy cho ḿnh một nền tảng luân lư không mang sức ép của tội lỗi! Như thế th́ c̣n đ̣i hỏi ǵ hơn nữa?
Đạt được sự trống không tuyệt đối
Tuy nhiên vẫn có thể làm hơn như thế. Cũng thật oái oăm, h́nh như thế giới Tây phương đă t́m thấy trong giáo lư của một trong số các tôn giáo lâu đời nhất của nhân loại một sự trợ lực lớn lao để giúp chống lại sự phá sản của cả một nền văn minh tân tiến. Khả năng của khoa học tỏ ra rất giới hạn, nhất là thuộc phạm vi con người, và sự kiện đó đă làm phát sinh sự mất tự tin tập thể trong xă hội ngày nay. Bệnh sida tung hoành nhất định là một yếu tố tiếp tay cho xu hướng đó. Thật vậy, từ nguyên thủy Phật giáo đă thiết lập một phương pháp giúp hội nhập với niết bàn xuyên qua thể dạng thăng bằng của thân xác và tâm linh. Điều kiện tiên quyết và tất yếu của thiền định là phải đạt được một thể dạng trống không tuyệt đối, và muốn đạt được thể dạng đó phải luyện tập du già và tuân thủ các quy tắc dinh dưỡng khắt khe. Mọi người đều biết nước Pháp là một quốc gia đạt kỷ lục thế giới về việc sử dụng thuốc an thần, chính v́ thế mà lối sống vô cùng tinh khiết của Phật giáo đă chinh phục một cách mạnh mẽ cả xứ sở này. Phật giáo chủ trương khái niệm về một thể dạng trống không trong nội tâm nhất định sẽ hứa hẹn một sự thành công rực rỡ trong các nền văn minh đô thị ngày nay.
Giống như trường hợp vừa kể, h́nh như Phật giáo cũng đă mang lại một giải pháp thay thế cho ngành phân tâm học già nua của Tây phương. Trong khi các công cuộc nghiên cứu của Freud (14) giúp cho con người đi sâu vào chính ḿnh th́ Đức Phật lại dạy chúng ta phải làm thế nào để ra thoát khỏi chính chúng ta. Sự kiện có nhiều người Tây phương lui tới các trung tâm thiền học Zen đă chứng tỏ sự thất vọng của họ đối với ngành phân tâm học của Tây phương. Sau hết phải nói đến tính chất sâu sắc của Phật giáo đă chinh phục được các triết gia. Chẳng hạn như trường hợp của André Comte-Sponville (15), tác giả của một quyển sách bán chạy như tôm tươi mang tựa đề Tập luận nhỏ về những Phẩm tính Đạo đức Lớn (Petit Traité des Grandes Vertues), và gần đây hơn là một quyển sách khác của ông với tựa đề Trí tuệ của những con người tân tiến (La Sagesse des modernes) viết chung với ông Luc Ferry (16), quyển sách thứ hai này đă gây ra nhiều chấn động trong dư luận. Ông là một triết gia vô thần nhưng lại tự chọn cho ḿnh một đường hướng chủ trương «sự yếm thế vui tươi» mà Đức Phật đă quảng bá. «Không ước mơ ǵ cả, cũng chẳng cầu xin ǵ cả, ấy chính là con đường mang lại hạnh phúc», đấy là quan điểm của André Comte-Sponville. Ông không hoàn toàn tin vào thuyết luân hồi – và đó cũng là điều duy nhất trong Phật giáo đ̣i hỏi phải có một sự tin tưởng nào đó – tuy nhiên ông vẫn tự cho ḿnh là «một người tân Phật giáo» (néobouddhiste). Về phần con đường bát chánh đạo th́ ông đă đem ra sử dụng để xây dựng toàn bộ những «Phẩm tính Đạo đức Lớn» trong tập luận giải của ông. Theo giáo lư của Đức Phật th́ những ǵ tốt đẹp thoát ra từ ḷng từ bi, t́nh nhân ái đối với tất cả chúng sinh (kể cả thú vật) sẽ giúp cho con người đạt được thể dạng sâu xa của nhập định, và thể dạng đó tương tự như đang ngồi chờ trong một gian pḥng trước khi có thể hội nhập với niết bàn. Gian pḥng đó tượng trưng cho nền đạo đức mà André Comte-Sponville đă chủ trương khi ông cố t́nh đặt niết bàn sang một bên.
Bất cứ ai cũng đều có thể nhận thấy là sự kiện trên đây đă chứng tỏ một cách hùng hồn khía cạnh yếu kém của các ngành triết học hiện đại. Tóm lại, dù sao đi nữa th́ ít ra chúng ta cũng có thể khẳng định là những ǵ vay mượn đại loại như trường hợp vừa kể không phải là một sự «phát minh mới mẻ» của triết học Tây phương. Cũng không đến nỗi khó khăn ǵ để nhận thấy những đường hướng tốt đẹp do Phật giáo mang lại đă bồi đắp cho những khiếm khuyết của nền tư tưởng phương Tây.
Sự vĩnh hằng của Thiên chúa giáo cần phải xét lại
Mặc dù đă hội đủ những điều kiện để thành công, tuy nhiên Phật giáo vẫn c̣n quá gần với vài chuyện huyễn hoặc có tính cách dân gian. Chỉ cần đơn cử một vài thí dụ trong số những ǵ mâu thuẫn rất phổ biến trong xă hội Tây phương. Nhiều cuộc thăm ḍ cho thấy sự cả tin vào các chuyện tái sinh ngày càng lan rộng một cách mạnh mẽ (kể cả các người Pháp tự nhận là người Thiên chúa giáo trung kiên). Chuyện tái sinh có vẻ được công nhận như một sự kiện hiển nhiên trong quảng đại quần chúng, người ta xem đó như là một dịp may để được sống thêm nhiều kiếp. Tóm lại đấy chỉ là một h́nh thức vĩnh hằng của Thiên chúa giáo được xét lại theo đướng lối của Phật giáo. Tuy nhiên phải hiểu rằng sự tái sinh đối với Phật giáo có nghĩa là rơi vào địa ngục (những chu kỳ hiện hữu thuộc vào thế giới ta-bà)! Phải say mê Phật giáo nhiều lắm mới có thể quan niệm theo cách đó, tức là phải đủ sức phát biểu ngược lại với những ǵ cần phải hiểu...
Đại loại sự mâu thuẫn như trên đây cũng thấy xuất hiện đối với khái niệm về niết bàn. Người ta vơ đũa một cách bất cập giữa thiên đường của người Thiên chúa giáo và thể dạng hoàn thiện do sự tu tập kiên tŕ của Phật giáo mang lại. Chữ «niết bàn» có nghĩa là «sự dập tắt», đó là thể dạng trống không, sự chấm dứt của khổ đau bằng sự tan biến của hiện hữu. Đấy là những ǵ trái ngược hẳn với thiên đường, nơi đó người ta tiếp tục sống trong phúc hạnh vĩnh hằng.
Sau hết, có nhiều người say mê Phật giáo thuộc loại «siêu hiện đại» tuyên bố rằng họ bị thu hút bởi những nghi lễ của Phật giáo Tây tạng, như thế chẳng phải là nghịch lư lắm hay sao? Phật giáo Tây tạng là một nhánh Phật giáo thần bí, gọi là Kim cương thừa hay Tan-tra thừa (xem giải thích bên dưới). Nhánh Phật giáo đó mang nặng nhiều nghi thức lễ bái – v́ thế đă trở thành một tôn giáo với đầy đủ ư nghĩa của nó – và tự đặt ḿnh trong một vị thế cá biệt – tức là dưới quyền tối cao của một vị Đạt-Lai Lạt-Ma – v́ thế nền tôn giáo của người Tây tạng đă đi rất xa so với những lời giảng huấn nguyên thủy của Đức Phật. Nền tôn giáo đó hàm chứa tính cách kỳ diệu, siêu nhiên, đ̣i hỏi những nghi thức thụ pháp lâu dài. Ngoài ra sự tái sinh của một vị Lạt-Ma quá cố cũng là một khía cạnh ngoạn mục. Có những phương pháp giúp khám phá một đứa bé hóa thân của một vị Lạt-Ma đă sống trước đây. Người ta xác nhận đứa bé đúng là hóa thân của vị Lạt-Ma nhờ vào các sự kiện xảy ra lúc đứa bé chào đời, hoặc dựa vào những hành động kỳ diệu và khác thường của đứa bé. Thật rơ ràng là tất cả các tập tục đó rất thích hợp để dựng thành phim, chẳng hạn như bộ phim Đức Phật Nhỏ (Little Buddha) của Bernardo Bertolucci, Bảy năm trên Tây Tạng của Jean-Jaques Annaud, và gần đây hơn là phim Kundun của Martin Scorsese. Dù sao th́ đấy cũng là một trong các bằng chứng của hiện tượng «mê say Phật giáo quá độ» (17). Có phải người ta đă từng thấy những người Thiên chúa giáo thất vọng v́ không được dự thánh lễ cử hành bằng tiếng la-tinh (18) nên đă chuyển sang Phật giáo Tây tạng, chỉ v́ nền Phật giáo này thực thi những nghi thức lễ bái.
Sự kiện theo về với Phật giáo không nhất thiết bởi v́ Phật giáo đă đáp ứng được những đ̣i hỏi của lư trí. Có được mấy tín đồ mới gia nhập hiểu rằng Đức Phật không muốn băi bỏ chế độ giai cấp bất công (19). Có được bao nhiêu người thuộc giới nghệ sĩ và diễn viên màn ảnh từng say mê «học phái Tây tạng» biết Đức Phật phát biểu như thế nào về người phụ nữ? Khi người đệ tử A-nan-đà hỏi vị Thầy như sau: «Thưa Ngài phải giữ thái độ như thế nào đối với người đàn bà?». Đức Phật trả lời như sau: «Hăy tránh đừng nh́n thấy họ». A-nan-đà lại hỏi « Nhưng lỡ ra nh́n thấy họ th́ phải làm sao?». Đức Phật trả lời: «Không nên nói chuyện với họ». An-nan-đà lại hỏi: «Nhưng nếu phải tiếp chuyện với họ th́ sao?». Phật liền bảo ngay: «Nếu thế th́ phải canh chừng lấy chính ḿnh...» (20).
Nhất định là mỗi Phật tử sẽ dựa vào các quan điểm riêng của ḿnh để tự chọn lấy một vài khía cạnh giáo lư nào đó của Phật giáo thích hợp với ḿnh. Dầu sao đi nữa th́ Đức Đạt-Lai Lạt-Ma cũng chưa bao giờ khuyên người Âu châu hăy đổi đạo. Ngài biết rơ là có cả một đại dương ngăn cách giữa hai nền văn hóa.
Một nền luân lư thụ động
Toàn bộ giáo lư của Đức Phật đều cho rằng khổ đau của con người phát sinh từ sự «mong muốn được sống» vĩnh cửu. Trong thế giới Tây phương ngày nay th́ chính cái cảm tính tham sống triền miên như thế đang lan tràn, nhất là nhờ vào tuổi thọ trung b́nh ngày càng tăng thêm. Hơn nữa trên phương diện hành động (chẳng hạn như các tổ chức nhân đạo, công tác xă hội...) th́ Phật giáo đă không theo kịp trong các xă hội hậu kỹ nghệ của chúng ta. V́ muốn lột bỏ tính chất hiện thực khoác lên mọi vật thể trong thế giới này bằng cách hướng vào sự quán tưởng nội tâm như là một thứ giấy thông hành để đạt được giải thoát, cho nên Phật giáo đă quy nạp một thứ luân lư thụ động. Mặc dù Phật giáo không áp đặt một thứ ǵ cả (ngược lại với nền văn hóa Do-thái-giáo – Thiên-chúa-giáo), nhưng Phật giáo nghiêng nhiều về sự khuyên bảo nên tránh không được gây ra đau khổ hơn là phải thực thi những điều tốt lành. Đấy là một h́nh thức vô cảm trước khổ đau của thế giới này, sự vô cảm đó bàng bạc trong Phật giáo và được xem như là điều kiện mang lại sự trong sáng (21). Quả thật điều đó chẳng có ǵ phù hợp với quan niệm của phương Tây. Muốn hiểu được Phật giáo và sống với Phật giáo phải biết lắng sâu vào Phật giáo, không phải chỉ tham gia vào một chuyến du ngoạn ở Hy-mă lạp-sơn là đủ. Số Phật tử thuộc giới nghệ sĩ nổi tiếng hội nhập thành công với Phật giáo rất ít. Trường hợp của ông Matthieu Ricard rất hiếm, có rất ít người Pháp đă dấn thân đến cùng trong việc tu tập như thế. Thật vậy, ông là một nhà sư sống trên Tây tạng (22) và là thông dịch viên chính thức của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma mỗi khi Ngài đến Pháp. Ông là con trai của Jean-Francois Revel. H́nh như ông Matthieu Ricard cũng không che dấu hết được những nỗi vui mừng của ḿnh khi nh́n thấy «làn sóng say mê Phật giáo» đang bành trướng trên quê hương gốc của ông.
Tuy không được hội nhập một cách đúng đắn, Phật giáo vẫn cho thấy một sức thu hút lớn lao. Chỉ c̣n chờ xem nền tín ngưỡng già nua Thiên chúa giáo có quyết tâm hành động để chống lại hay không (23), v́ nền tôn giáo đó vẫn cho thấy c̣n sót lại một vài khả năng ngoạn mục – chẳng hạn như Ngày quốc tế cho tuổi trẻ (Journées mondiale de la jeunesse) được tổ chức vào mùa hè 1997 tại Paris (24). Nhà thần học Thiên chúa giáo là Romano Guardini (25) tỏ ra có lư khi ông tuyên bố rằng Đức Phật là một «thiên tài cuối cùng trong lănh vực tôn giáo mà nền văn minh Thiên chúa có lẽ c̣n phải đối đáp» («le dernier génie religieux avec lequel la civilisation chrétienne aura à s’expliquer»).
Hăy can đảm lên và nguyện cầu !
Câu niệm chú Om mani pad me hum là lời nguyện cầu bất tận của xứ Tây tạng. Tuy rằng người ta không hiểu ư nghĩa là ǵ (26), nhưng câu thần chú này hàm chứa một sức mạnh siêu nhiên. Do đó cần phải tụng niệm suốt ngày. Để có thể giúp cho nhịp độ tŕ tụng nhanh hơn, các nhà sư Tây tạng đă sáng chế ra những chiếc cối xay để tiếp sức, trên mỗi cối xay có 12 tờ giấy, trên mỗi tờ giấy có chép 2460 câu niệm chú. V́ thế chỉ cần quay một ṿng cối xay cũng đă làm phát ra 29 520 câu tŕ tụng. Quả là một kỷ lục thế giới... (27)
Phần ghi chú của tác giả:
Ba cỗ xe của Phật giáo là ba trường phái h́nh thành từ giáo lư của Đức Phật:
- Cỗ xe Lớn, c̣n gọi là Mahayana là trường phái dựa vào các kinh sách xuất hiện muộn gọi là su-tra. Theo các kinh sách này th́ Đức Phật không nhất thiết chỉ là sự tượng trưng của thân xác vật chất và những lời giáo huấn của Ngài. Phật đối với trường phái này đă trở thành một thể dạng tinh anh hàm chứa trong tất cả chúng sinh. Đại loại Niết bàn cũng được xem như một khái niệm tương tự như cách suy luận trên đây. Trường phái này được truyền bá sang Trung quốc, Triều Tiên và Nhật bản.
- Cỗ xe Nhỏ, c̣n gọi là Hynayana, là một trường phái tôn trọng tuyệt đối các lời giảng nguyên thủy mà Đức Phật đă truyền dạy các đồ đệ của Ngài. Phương pháp tu tập lư tưởng nhất của trường phái này đ̣i hỏi người tu hành phải xuất gia và phải tuyệt đối noi theo những lời giáo huấn của Đức Phật. Trường phái này phát triển trong các vùng Đông Nam Á, như Kampuchia, Việt Nam, Thái lan và Sri Lanka.
- Cỗ xe Kim cương, c̣n gọi là Tan-tra hay Vajrayana, đúng ra đây chỉ là một chi phái của Cỗ xe Lớn, mang tính cách bí truyền. Sự tu tập dựa vào phương pháp nhập định sâu xa và nhất là cần phải có một người Thầy để thụ giáo. Đó là nền Phật giáo của Tây Tạng và Mông cổ.
Chú thích của người dịch:
1- Theo truyền thuyết Do Thái giáo và Thiên chúa giáo th́ con người đứng ra xây dựng ngọn tháp Babel dự trù sẽ chạm đến trời cao, nhưng Thượng đế đă phá hỏng dự tính này để trừng phạt sự ngạo mạn của họ.
2- Jéhovah là tên gọi của Thượng đế.
3- Sofres là viện thăm ḍ dư luận lớn nhất của Pháp. Figaro là một tờ báo khuynh hữu lâu đời và rất uy tín. Cả hai hợp tác để thống kê hai nhóm người : theo Phật giáo và có cảm t́nh với Phật giáo.
4- Les Cahiers du Sud là một tạp chí văn học do văn hào Pháp Marcel Pagnol thành lập từ năm 1914 quy tụ những cây bút nổi tiếng nhất của Pháp trong thế kỷ XX, tuy nhiên đến năm 1966 th́ ngưng phát hành v́ h́nh như không c̣n đủ sức cạnh tranh với hiện đại.
5- Richard Gere sinh năm 1949 là một tài tử màn ảnh nổi tiếng của Mỹ. Năm 1970 trong một chuyến du hành Á châu ông khám phá được Phật giáo và ư thức được sự hoàn cảnh đau thương của nước Tây tạng đang bị chiếm đóng. Đến năm 1980 ông nhất quyết bỏ đạo Tin lành Methodism (Giám lư) để quy y và đă trở thành một Phật tử vô cùng năng động và tích cực. Ông cũng là một ngưởi bạn bên cạnh Đức Đạt-Lai Lạt-Ma.
6- Jean-Claude Carrière sinh năm 1931 là một nhà văn, nhà dựng kịch và phim ảnh, xuất thân từ các trường nổi tiếng của Pháp, chẳng hạn như Ecole Normale Supérieure. Ông viết rất nhiều sách, đă từng đạo diễn và viết hàng nhiều chục chuyện phim, và kịch bản. Ông là một Phật tử trung kiên.
7- Matthieu Ricard là một nhà sư Phật giáo đă từng tu học ở Tây tạng và Népal. Ông là một gương mặt Phật giáo mà nhiều người biết tiếng.
8- Jean-Francois Revel (1926-2006) là một triết gia, b́nh luận gia, học giả và triết gia, thành viên của Hàn Lâm Viện Pháp. Ông là cha của nhà sư Matthieu Ricard, nhưng v́ hai cha con đều nối tiếng nên ông đành chọn một tên khác.
9- Vệ-đà (Veda) là bộ kinh xưa nhất của đạo Bà-la-môn gồm có những câu thần chú và những bài hát mang tính cách thiêng liêng dùng để xướng lên trong khi thực thi những nghi lễ hiến dâng.
10- Ư nghĩa của câu này không được đúng lắm v́ Phật giáo trong suốt lịch sử phát triển không hề chủ trương chống lại một quyền lực hay một chủ thuyết nào cả. Phật giáo chỉ đưa ra một lối sống cá biệt, xây dựng chung quanh một hệ thống triết học đặc thù, hàm chứa một chủ đích thật cao cả, vượt lên trên tất cả các trào lưu tư tưởng và tín ngưỡng khác. Phật giáo phát triển trùng hợp với phong trào cải tiến của đạo Bà-la-môn khi nền tín ngưỡng này đưa ra các bộ kinh mới gọi là Upanisad thay cho kinh Vệ-đà. Tóm lại không nên xem sự h́nh thành của Phật giáo như là một cuộc cách mạng chống lại một quyền lực khác, giống như cuộc cách mạng 1789 của Pháp chẳng hạn. Tuy nhiên người ta vẫn có thể xem sự h́nh thành của Phật giáo đă đánh dấu một mức phát triển cao độ và khác thường của tư tưởng nhân loại. Cho đến ngày nay chưa có một hệ thống tư tưởng thâm sâu và mạch lạc nào có thể thay thế được.
11- Khái niệm về ta-bà trong đạo Bà-la-môn và trong Phật giáo khác hẳn nhau. Nói chung th́ Phật giáo dùng lại một số các từ đă có từ trước trong đạo Bà-la-môn chẳng hạn như dharma, karma..., nhưng ư nghĩa th́ hoàn toàn khác hẳn.
12- Tốt hay xấu có tính cách tương đối, biến đổi tùy theo quan niệm (sự chủ quan, cách cảm nhận sai lầm...) và bối cảnh (lịch sử, văn hóa, giáo dục...). Câu nệ vào khái niệm tốt hay xấu, t́m cách phân biệt và tranh luận là một h́nh thức bám víu.
13- Các thần linh trong Phật giáo Á châu là những phương tiện tu tập chịu ít nhiều ảnh hưởng từ các nền văn hóa địa phương. Các thần linh chỉ mang tính cách trợ lực và giai đoạn. Đạt được một cấp bậc tu tập nào đó th́ h́nh bóng các vị thần linh sẽ phải mờ dần để nhường chỗ cho ánh sáng của trí tuệ. Người Tây phương nh́n trực tiếp vào bản chất vô thần của Phật giáo, trong khi đó nhiều người Á châu lại dừng lại ở cấp bậc thần linh và không chịu đi xa hơn để t́m hiểu những lời giáo huấn trong Đạo pháp.
14- Sigmund Freud (1856-1939) là cha đẻ của ngành phân tâm học hiện đại.
15- André Comte-Sponville sinh năm 1952 là một triết gia khá nổi tiếng, giảng dạy tại đại học Sorbonne, xuất bản nhiều sách và viết báo cũng nhiều. Một số người xem ông là một người « gần » với Phật giáo, một số khác lại cho ông là một « người thiên chúa giáo vô thần ». Năm vừa qua (2008), chính phủ Pháp mời ông gia nhập với tư cách thành viên trong ủy ban tư vấn của chính phủ về các vấn đề Đạo đức.
16- Luc Ferry sinh năm 1951 là một triết gia, cựu bộ trưởng giáo dục, cháu nội của ông Jules Ferry (1832-1893) từng là bộ trưởng và chủ tịch quốc hội Pháp và là người đă tranh đấu để tách rời nhà Thờ ra khỏi trường học. Nét chính trong tư tưởng của Luc Ferry là Triết học chỉ có thể nẩy nở và mang ư nghĩa toàn vẹn khi nào tách rời khỏi khái niệm về Thượng đế.
17- Đây là cách nh́n quá sức duy lư (hay duy vật) của một vài người Tây phương thiếu thận trọng. Khái niệm về sự tái sinh trong Phật giáo Tây tạng đ̣i hỏi sự tu tập và nghiên cứu tường tận và sâu xa mới thấu triệt và nắm bắt được. Thiết nghĩ cũng không cần nêu ra đây, và có lẽ cũng quá dài ḍng để thảo luận trong khuôn khổ của một lời ghi chú.
18- Trong nghi thức hành lễ ngày nay, Thiên chúa giáo được nhà thờ La mă cho phép dùng các ngôn ngữ hiện đại và phổ thông tùy theo địa phương và quốc gia. Tuy nhiên xu hướng bảo thủ vẫn chủ trương phải dùng tiếng la-tinh để cử hành thánh lễ.
19- Hoàn toàn không hiểu được là tác giả đă căn cứ vào kinh sách nào để khẳng định điều này.
20- Tác giả không hiểu ư nghĩa và mục đích của mẫu chuyện đối thoại của Đức Phật và A-nan-đà. Ngụ ư của các lời khuyên của Đức Phật là cố tránh những phiền phức gây ra do sự tiếp xúc và lân la giữa người tu hành và phụ nữ, nhưng tuyệt nhiên không có tính cách kỳ thị nam nữ. Đối với giáo lư nhà Phật, tất cả chúng sinh đều ngang hàng nhau, đều hàm chứa Phật tính như nhau, kể cả hàng súc vật.
21- Những ǵ tác giả vừa tŕnh bày chứng tỏ tác giả không hiểu một tí ǵ về Từ bi trong Phật giáo. Ḷng từ bi của Phật giáo trải rộng ra đến tất cả chúng sinh và lư tưởng của người Bồ-tát là quên ḿnh và hy sinh tất cả đời ḿnh cho chúng sinh. Sự bố thí của Phật giáo rất sâu xa và toàn vẹn, từ những phương tiện vật chất (tài thí), sự an ủi và che chở (vô úy thí), cho đến sự hiểu biết và giải thoát (Pháp thí). Người Phật tử bố thí không cần biết là ḿnh đang bố thí, bố thí cái ǵ và bố thí cho ai. Đó là tính cách bất vụ lợi tuyệt đối trong cử chỉ bố thí của họ. Bố thí trong chủ đích khuyến dụ và vụ lợi không phải là Từ bi. Đối với Phật giáo Từ bi phải đi đôi với Trí tuệ. Bố thí không Trí tuệ không có hiệu quả ǵ cả và chỉ là cách gây thêm vướng mắc và khổ đau một cách kín đáo mà thôi.
22- Đúng hơn ông sống trong một tu viện ở xứ Nepal và thường đi thuyết giảng khắp nơi trên thế giới, kể cả Trung quốc và Hoa kỳ.
23- Tất nhiên là có, từ thế kỷ XIX cho đến nay, dưới những h́nh thức rất tinh vi. Chẳng qua đấy là những phản ứng tự nhiên để bảo vệ đức tin và nền văn hóa lâu đời của họ. Người tu tập cần phải hiểu điều đó để nh́n vào hướng khác.
24- Ngày quốc tế cho tuổi trẻ (JMJ) là phong trào quy tụ tuổi trẻ khắp nơi trên thế giới, mỗi lần tổ chức cách nhau hai hay ba năm tại một thành phố lớn trong các quốc gia theo Thiên chúa giáo trên thế giới, trong mục đích «trẻ trung hóa» tín ngưỡng và vận động sự hăng say của tuổi trẻ. Mỗi lần tổ chức đều gây ra một gánh nặng về tài chính cho giáo hội và h́nh như mỗi năm mỗi yếu dần (?).
25- Romano Guardini (1885-1968) gốc người Đức, là một nhà thần học, triết gia và lư thuyết gia lớn nhất trong thế kỷ XX của nhà thờ Thiên chúa giáo La Mă, được phong chức hồng y giáo chủ.
26- Nghĩa của câu này là «Om, ngọc quư trong hoa sen». Chữ Om không có nghĩa, tuy nhiên âm hưởng của vần Om cùng với toàn bộ câu niệm chú khi xướng lên sẽ mang tính cách rất thiêng liêng.
27- Chỉ có người tụng niệm mới nghe thấy tiếng tụng niệm của ḿnh mà thôi, v́ nó phát ra từ đáy tim ḿnh, tạo ra những âm hưởng lan rộng và tràn ngập trong ḷng ḿnh. Không có ai nghe và cũng không có ai đếm để xem ta tŕ tụng được bao nhiêu lần để mà khen thưởng. Cái cối xay chỉ là một trợ lực bên ngoài dùng để cụ thể hóa ước vọng được trải rộng ra tám phương trời những hạt giống từ bi hiển lộ trong tim ḿnh.
Đối thoại được ông Frédéric Lenoir
và bà Jennifer Schwarz ghi chép.
Hoang Phong chuyển ngữ
(Bures-Suy-Yvette, 10.07.10)