Tưởng niệm ngày đản sinh của đức Phật là xưng tụng sự xuất hiện hy hữu và qúy giá vô ngần của ngài trên thế giới này, đồng thời cũng là dịp để cho người Phật tử tưởng niệm đến công ơn giáo hóa sâu dày mà ngài đă dành cho chúng sinh.
Một trong những cách tưởng niệm và báo đáp thâm ân của đức Phật thiết thực nhất mà người Phật tử có thể làm được là tiếp tục phát huy và truyền bá giáo pháp giá trị của ngài, trong đó thắp sáng bản nguyện lớn lao của ngài khi thị hiện ở nhân gian là việc làm có ư nghĩa nhất.
Bản nguyện lớn nhất mà đức Phật thị hiện ra đời là ǵ?
Chính là muốn tất cả chúng sinh đều làm Phật, như đức Phật đă nói rơ trong pháp hội Pháp Hoa trên núi Linh Thứu.
Có lẽ v́ vậy, lần đầu tiên đến núi Hoàng Mai để cầu pháp với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, được tổ hỏi đến để cầu ǵ, ngài Huệ Năng đáp ngay tức khắc: chỉ cầu làm Phật.
Câu trả lời quả thật thẳng thắn, trực diện và quyết liệt. Nếu không có quyết chí, không có tín tâm vững mạnh, không có thệ nguyện kiên cố, không biết chắc ḿnh có thể thành Phật th́ khó có câu trả lời khẳng quyết như vậy.
Nhưng trước ngài Huệ Năng, thời Phật c̣n tại thế, trong hội Pháp Hoa trên đỉnh núi Linh Thứu, đức Phật đă kể chuyện về một bồ tát Thường Bất Khinh khi gặp ai cũng cung kính chấp tay vái chào mà thưa rằng “Tôi không dám khinh ngài, v́ ngài sẽ làm Phật.” Lời lẽ đó không phải là kiểu nói ba hoa, chế diễu, làm dáng tôn kính người bề ngoài. Lời lẽ đó được xuất phát từ cái tâm chân thật, từ nhận thức và thái độ nghiêm túc. Lời lẽ đó được nói ra duy chỉ từ một người biết chắc như đinh đóng cột rằng người mà ḿnh kính trọng lễ bái trước mặt rồi đây sẽ làm Phật.
Đơn giản hơn, b́nh dân hơn, đức Phật, cũng trong hội Pháp Hoa, c̣n dạy rằng dù với tâm tán loạn, vào trong chùa tháp, niệm một câu “Nam Mô Phật,” th́ cũng thành Phật. Hơn thế nữa, ngay cả đứa bé lấy cát giỡn chơi, vẽ, đắp thành h́nh tượng Phật, rồi cũng thành Phật.
Làm Phật dễ vậy sao?
Tất nhiên là không dễ.
Nhưng, cần phân biệt nhân địa tu hành và quả vị chứng đắc. Trên lănh vực nhân địa tu hành th́ một niệm nghĩ tới Phật ắt hạt giống Phật nẩy sinh. Ngay trong lúc hạt giống Phật nảy sinh th́ đă hàm chứa quả vị Phật viên măn, v́ trong nhân ắt có qủa. Trên lănh vực quả vị tu chứng th́ để hạt giống Phật trưởng thành, ra hoa, kết trái cũng cần phải có duyên pḥ trợ, mà quá tŕnh làm sạch thân tâm với bao nhiêu nghiệp chướng phiền năo từ vô lượng kiếp là một trong những duyên lành không thể thiếu, v́ từ nhân đến quả không thể thiếu duyên. Cho nên, trong Kinh Pháp Hoa, đức Phật dạy rằng:
“Chư Phật lưỡng túc tôn
Tri pháp thường vô tánh
Phật chủng tùng duyên khởi
Thị cố thuyết nhất thừa.”
Các đức Phật đầy đủ phước trí mà nhân thiên kính ngưỡng biết các pháp vốn không có tự tánh, giống Phật do duyên mà khởi sinh, v́ vậy, nói pháp nhất thừa, khai mở con đường thành tựu Phật đạo cho chúng sinh.
Trong Luận Thành Duy Thức đề cập đến 6 đặc tính của chủng tử, tức hạt giống, để giải thích rơ về nguyên lư phát sinh và tồn tại của chủng tử. Sáu đặc tính đó là: Sát na diệt, quả câu hữu, quyết định tánh, hằng tùy chuyển, đăi chúng duyên và dẫn tự quả. Ở đây cho thấy pháp, bao gồm sắc và tâm pháp, có mặt và tồn tại như hạt giống là pháp sinh diệt liên tục không ngừng nghỉ trong từng sát na. Một ư niệm khởi lên ắt phải diệt ngay trong sát na đầu, nhưng không diệt hẳn mà tiếp tục tồn tại trong dạng thức sinh diệt lien tục nếu nó là ư niệm xác định tánh thiện hay ác, nếu nó có đủ duyên để dẫn đến kết quả. Như vậy, khi một chúng sinh khởi ư niệm về Phật th́ ngay trong sát na đầu tiên đó hạt giống Phật tức th́ phát sinh, và v́ Phật là pháp có đặc tính tối thiện cho nên hạt giống này sẽ tiếp tục tồn tại dưới dạng thức năng lực qua quá tŕnh sinh diệt liên lỉ cho đến khi viên măn quả vị Phật. Trong quá tŕnh tồn tại đó, tất nhiên, không phải lúc nào ư niệm Phật cũng được nhớ tới, cũng được trưởng dưỡng qua sức tu tập, mà có khi nó bị bỏ quên đi trong thời gian dài, nhưng nó được hỗ trợ bằng các thiện duyên khác mà một chúng sinh cưu mang theo.
Điều đó cũng có nghĩa là quá tŕnh thành tựu quả vị viên măn của hạt giống Phật sẽ được rút ngắn nếu một chúng sinh tiếp tục không ngừng nghỉ trưởng dưỡng nó từ đời này sang đời khác, và đặc biệt trưởng dưỡng bằng những chất liệu thích đáng.
Chất liệu thích đáng nói ở trên không ǵ khác hơn là giáo pháp đại thừa mà đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đă dạy. Đại thừa giáo hàm ngụ hai yếu tính cốt lơi đó là: phát tâm bồ đề và thi thiết từ bi và trí tuệ.
Phát tâm bồ đề là bước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bi và trí tuệ là triển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai b́nh diện từ bi và trí tuệ bằng việc thực nghiệm sáu ba la mật là bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
Phát tâm như thế nào? Là cầu làm Phật và làm cho chúng sinh cũng thành Phật như ḿnh.
Cầu làm Phật th́ phải có trí tuệ siêu việt để phá sạch vô minh và diệt trừ phiền năo. Độ cho chúng sinh làm Phật th́ phải có tâm lượng đại từ bi thương xót và cứu khổ.
Cái khổ của chúng sinh có hai mặt: một là cái khổ về vật chất, hai là cái khổ về tinh thần. Cái khổ về vật chất th́ phải lấy vật chất mà bố thí tức thực hành tài thí. Cái khổ về tinh thần th́ phải đem tinh thần mà bố thí tức thực hành pháp thí và vô úy thí. Nhưng đem vật chất cho người cũng cần phải biết cách cho chứ không phải ném vào mặt họ là xong chuyện. Cách cho đúng phát xuất từ tấm ḷng. Bố thí v́ danh, v́ lợi, v́ che mắt thiên hạ, v́ làm cho lấy có là thực hiện việc trao đổi, buôn bán chứ không phải đúng nghĩa bố thí. Cho nên, người có ḷng từ bi thấy kẻ nghèo khó, khổ đau liền cảm thông thương xót mà giúp đỡ không v́ bất cứ danh lợi ǵ. Tuy nhiên, như người xưa nói “giúp ngặt không thể giúp nghèo,” muốn cho chúng sinh dứt sạch khổ năo th́ chỉ có cách duy nhất là giúp họ thành Phật. Thành Phật rồi sẽ vĩnh viễn không c̣n khổ vật chất và tinh thần nữa. Đó là cách bố thí cứu cánh nhất.
Làm Phật là khai mở toàn diện bản thể chân như, là hiển bày trọn vẹn pháp thân mầu nhiệm, là giác ngộ triệt để bản lai diện mục của chính ḿnh đă bị che khuất trong mây mù vô minh vọng niệm. Xua tan mây vô minh th́ chỉ có trí tuệ bát nhă mới làm được ngoài ra không c̣n cách nào khác. Ch́a khóa mở kho báu trí tuệ bát nhă là thiền định, bởi lẽ vọng niệm th́ tâm động, tâm động là hành tác của vô minh. Hết vọng niệm th́ tâm tịnh. Tâm tịnh th́ trí sáng. Trí sáng th́ mây vô minh bị xóa tan. Mây vô minh sạch th́ mặt trời chân như hiển bày, bản lai diện mục tự hiện.
Nói thiền định là nói chung chung. Nếu nói cho rơ th́ phải nói thiền và định. Thiền là vận dụng sức nội quán, tức năng lực chiếu kiến của trí tuệ, để nhận diện bản tâm. Phương thức này không cần phải thiền tọa mà có thể thực hiện ngay trong mọi sinh hoạt của đời sống thường nhật lúc đi đứng nằm ngồi. Định bao gồm chỉ và quán, là đ́nh chỉ tạp niệm để thắp sáng năng lực quán chiếu hành tác của tâm. Định cần phải thực hiện trong phương thức thiền tọa đ̣i hỏi đ́nh chỉ mọi sinh hoạt lao tác trong một thời gian nào đó.
Dù là thực hành từ bi qua việc bố thí để cứu khổ chúng sinh hay vận dụng trí tuệ để phá vô minh trực ngộ chân tánh để tự cứu ḿnh th́ cũng đều cần đến nguyên tắc hay khuôn phép nghiêm túc hẳn hoi tức tŕ giới, sự nhẫn nại để vượt qua trước bao nhiêu nghịch duyên, nghịch cảnh tức nhẫn nhục, và sự kiên tŕ bền bỉ không thối lui để đạt cứu cánh tức tinh tấn. Sáu ba la mật v́ vậy không thể thiếu đối với người cầu làm Phật cho ḿnh và cho người.
Nuôi dưỡng hạt giống Phật c̣n là việc làm cần thiết để vừa nâng cao giá trị tôn quư của đời sống một chúng sinh, vừa góp phần xây dựng và phát triển cộng đồng xă hội dù ở thời đại nào, quốc độ nào.
Nuôi dưỡng hạt giống Phật là nêu ra mục đích cao cả nhất là làm Phật. Trong quá tŕnh làm Phật đó, một chúng sinh tự thể hiện phẩm giá cao qúy của ḿnh như là gịng dơi của chư Phật, là một thành phần của chủng tánh Như Lai. Phẩm giá đó ở tầm mức căn bản và phổ quát là b́nh đẳng tuyệt đối giữa tất cả mọi cá nhân, mọi chủng loại. Với phẩm giá b́nh đẳng như vậy, cho nên không một chúng sinh nào, không một người nào có thể nhân danh bất cứ ai, bất cứ thế lực nào để chà đạp lên phẩm giá và cuộc sống của kẻ khác. Một cộng đồng xă hội biết tôn trọng phẩm giá cao quư của từng người như vậy sẽ là điều kiện ắt có và đủ để có thể vừa duy tŕ các truyền thống đạo đức nhân bản thuần hậu, vừa tạo dựng vững chắt nền tảng nhân tâm để góp phần kiến tạo ḥa b́nh, ổn định và phát triển xă hội lâu dài.
Nuôi dưỡng hạt giống Phật là triển khai khả tính và năng lực trong mỗi chúng sinh lên tới tầng mức cao nhất hay tối thượng. Đó là quá tŕnh xây dựng và phát triển cuộc sống cá nhân và cộng đồng xă hội từ đáy sâu tăm tối, tội lỗi, nghiệp chướng, và khổ đau lần hồi lên cuộc sống tươi sáng, cải thiện, tiến bộ, lành mạnh, giải thoát, và an lạc. Một cá nhân thực hành tài thí, pháp thí th́ cộng đồng xă hội bớt đi phần nào cảnh lầm than khổ cực về vật chất và tinh thần. Nhiều cá nhân thực hành tài thí, pháp thí th́ cộng đồng xă hội sẽ có nhiều người bớt khổ hơn về vật chất và tinh thần. Và nếu cả cộng đồng xă hội đều thực hành tài thí, pháp thí th́ toàn thể xă hội sẽ hết khổ đau về vật chất và tinh thần. Tương tự như vậy, nhiều người thực hành hạnh tŕ giới với năm giới cấm: không sát hại sinh vật, không trộm cắp, không ngoại t́nh, không nói dối, không uống rượu th́ cộng đồng xă hội sẽ giảm bớt đi rất nhiều những tệ nạn xấu ác như giết người, trộm cắp, cướp bóc, phá vỡ hạnh phúc gia đ́nh, thị phi tranh chấp, lái xe uống rượu, v.v… Đặc biệt, khi mọi người chú trọng vào việc phát huy trí tuệ th́ tŕnh độ dân trí sẽ được nâng cao, các lănh vực giáo dục, văn hóa, tư tưởng, triết lư, học thuật, khoa học kỹ thuật sẽ được phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng xă hội.
Thế mới biết lư tưởng tịnh Phật quốc độ của đại thừa dựa trên nền tảng thành tựu Phật đạo cho chúng sinh là lư tưởng không những giá trị tôn quư mà c̣n khả thi. V́ vậy, trong Kinh Duy Ma Cật, bồ tát Duy Ma Cật đặc biệt nhấn mạnh đến lư tưởng tịnh Phật quốc độ lấy ba tâm làm nền tảng: Trực tâm, thâm tâm và bồ đề tâm. Trực tâm là nhiếp luật nghi giới. Thâm tâm là nhiếp thiện pháp giới. Bồ đề tâm là nhiêu ích hữu t́nh giới.
Dùng nhiếp luật nghi để làm pháp luật kỷ cương điều trị loạn động của cá nhân và xă hội. Lấy nhiếp thiện pháp giới để phục vụ lợi ích cho mọi người. Đem nhiêu ích hữu t́nh giới để làm viên măn hai điều trên trong mục tiêu làm cho tất cả chúng sinh đều thành Phật.
Nói tóm lại, nỗ lực giáo hóa một đời của đức Phật không ǵ khác hơn là làm cho chúng sinh được thành Phật như ngài. Tưởng niệm ngày đản sinh của đức Phật c̣n ǵ thiết thực hơn là thực hiện theo bản nguyện của Ngài: nuôi dưỡng hạt giống Phật trong chúng ta.