NGHĨA LƯ TỤNG NIỆM
HT. Thích Thắng Hoan
Kỳ 4
(tiếp theo và hết)
2.- Ư NGHĨA VÀ CÔNG DỤNG NHỮNG THẦN CHÚ:
(Sưu tập trong Nhị Khoá Hiệp Giải của Hoà Thượng Thích Khánh Anh và trong Bạch Y Thần Chú của Đường Sáng Ấn Quán số 712N. 9th Strêt, San Jose, CA 95112 ấn hành).
Những người hành tŕ Kinh Đại Thừa Phật Giáo đều có tụng các Thần Chú trong các thời khoá nhằm mục đích tiêu trừ nghiệp chướng oan khiên, thêm được phước lành tăng trưởng. Ư nghĩa chữ Thần Chú như trước đă giải thích là lời nói bí mật của chư Phật (Mật ngôn hay Phật ngôn), lời nói đặc biệt này chỉ có các đức Phật trong mười phương nghe biết mà nó không phải là thứ ngôn ngữ thường t́nh của các chúng sanh trong ba cơi sử dụng, cho nên những thứ ngôn ngữ này người phàm phu không thể nào hiểu rơ. Những ai muốn chư Phật, chư Bồ Tát trong mười phương gia hộ những khổ đau của cuộc đời chỉ cần hành tŕ Thần Chú được chỉ dẫn sẽ được linh ứng theo sở cầu. Thần Chú của Mật Tông có nhiều loại và mỗi loại có công dụng riêng, nhưng các Thiền Gia trong các Thiền Môn chỉ chọn khoảng một số Thần Chú để sử dụng tụng trong các buổi lễ như Cầu An, Cầu Siêu, Sám Hối, v.v... gồm có Thần Chú Lăng Nghiêm, Thần Chú Đại Bi và mười Thần Chú khác gọi là Thập Chú. Ư Nghĩa và công dụng các Thần Chú nói trên được giải thích như sau:
1)- Chú Lăng Nghiêm:
Công dụng của Thần Chú Lăng Nghiêm, theo Triết Lư Đạo Phật hay Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm trong Phật Học Phổ Thông Khoá VI và VII của Hoà Thượng Thích Thiện Hoa, trang 255 và 266 đức Phật nói: “Nếu người nào nghiệp chướng nặng nề không thể trừ được, ông (chỉ ông A Nan) nên dạy họ chí tâm tŕ chú Lăng-nghiêm này th́ các nghiệp chướng đều tiêu diệt” và đức Phật nói tiếp: “Sau khi ta diệt độ các chúng sanh đời sau, nếu có người tŕ tụng chú này th́ các tai nạn: thủy tai, hoả hoạn, thuốc độc, độc trùng, ác thú, yêu tinh, quỉ quái, v.v... đều chẳng hại được”.
Chúng ta muốn đạt thành những ư nguyện cho cuộc sống được an lạc và thành quả trên con đường giác ngộ giải thoát th́ phải chuyên cần hành tŕ thâm nhập Chú Lăng Nghiêm này để nhờ thần lực chuyển hoá hộ. Điều đó chính đức Phật đă nói trong Kinh Lăng Nghiêm: “Ma Đăng Già là kẻ dâm nữ, không có tâm tu hành c̣n được thành quả Thánh, huống chi các ông là bậc Thanh văn, có chí cầu đạo vô thượng, lại tŕ tụng chú này, th́ quyết định thành Phật rất dễ, cũng như than gió tung bụi, chẳng có khó ǵ.”�
2)- Chú Đại Bi:
Theo Kinh Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni giải thích: “Hồi đời quá khứ vô lượng ức kiếp, có đức Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ ra đời v́ ngài Quán Thế Âm mà nói ra chú Đại Bi này. Lúc đó Ngài mới trụ bực Sơ Địa, sau khi nghe chú này rồi th́ siêu chứng lên bậc Bát Địa liền, Ngài thấy hiệu nghiệm như vậy liền phát đại nguyện rằng: “Nếu qua đời vị lai có thể đem thần chú này ra làm lợi ích cho chúng sanh th́ cho thân Ngài sanh ra ngàn cái tai ngàn con mắt,” v.v...� Ngài nguyện vừa xong th́ quả nhiên tay mắt đều đầy đủ tất cả và lại được chư Phật Phóng quang soi đến thân Ngài, đồng thời soi khắp vô biên thế giới. Khi ấy Ngài lại phát nguyện nữa rằng: “Người nào nếu tŕ tụng chú này mỗi đêm 5 biến th́ đặng tiêu hết những tội nặng sanh tử trong trăm ngàn vạn ức kiếp, đến lúc mạng chung th́ có thập phương chư Phật hiện thân tiếp dẫn về cơi Tịnh Độ. Bằng như người nào tŕ tụng chú này mà sau c̣n đọa vào ba đường ác và chẳng đặng sanh về cơi Phật hay chẳng đặng những pháp Tam Muội, chẳng biện tài, sở cầu không toại chí, nếu có mấy sự ấy, th́ chú này không được xưng là Đại Bi Tâm Đà La Ni”. Chỉ trừ những người tâm không thiện, chí không thành và ḷng hay nghi th́ không thấy hiệu nghiệm được liền mà thôi.
Theo Nhị Khoá Hiệp Giải của Hoà Thượng Thích Khánh Anh, trang 74 giải thích: “Thuở ấy, đức Quán Thế Âm rất kín nhiệm Phóng ra hào quang lớn chiếu cả mười phương các cơi nước đều rực rỡ thành màu vàng ṛng; rồi chấp tay bạch Phật rằng: Tôi có thần chú.... Đại Bi tâm Đà La Ni, nay tôi muốn nói ra để cho các chúng sanh đều đặng an lạc, v́ nó có hiệu lực: tiêu trừ bệnh hoạn, tuổi sống lâu dài, giàu có, thêm điều lành, dứt hết các tội, được toại tâm với sự mong cầu, nên được Phật hứa cho thuyết chú.”
Đây là những sự linh ứng và diệu dụng của Thần Chú Đại Bi.
3)- Chú Như Ư Bảo Luân Vương Đà La Ni:
Theo Như Ư Tâm Đà La Ni: Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại v́ muốn cho chúng sanh tùy ư sở cầu cái ǵ cũng được như nguyện nên Ngài bạch với Phật xin để Ngài thuyết chú này. Những người tŕ tụng mà rơ được nghĩa thâm mật của chú này th́ cái thắng lợi ấy cũng thí như cây như ư sanh ra những ngọc bảo châu như ư, tuỳ nguyện muốn cầu việc ǵ cũng được.
Lúc Bồ Tát thuyết chú này rồi, sáu chưởng chấn động, cung điện của Ma Vương đều nổi lửa cháy sợ hăi không cùng, các loài độc ác chúng sanh đều lăn nhào té ngă, c̣n những kẻ thọ khổ trong địa ngục và ngạ quỷ th́ đều đặng sanh về cơi Trời.
Người nào nhứt tâm tŕ tụng chú này th́ các thứ tai nạn đều được tiêu trừ mà đến lúc lâm chung lại được thấy đức Phật A Di Đà và Ngài Quán Thế Âm tiếp dẫn về cơi Tịnh Độ.�
4)- Thần Chú Tiêu Tai Cát Tường:
Theo Kinh Tiêu tai Cát Tường: Khi Phật ở tại từng trời Tịnh Cư nói với các thiên chúng cùng các vị quản lư 28 ngôi sao và 12 cung thần rằng: “Có chú Xí Thạnh Quảng Đại Oai Đức Đà La Ni” của Phật Ta La Vương đă nói hồi trước. Ta nay thuyết ra đây là pháp để trừ những tai nạn. Nếu trong Đế đô quốc giới có các vị đặc trách sao yêu tinh đến làm những điều chướng nạn, hay những vị đặc trách sao quan hệ bổn mạng của nhân loại có ǵ bất tường phải lập đạo tràng, rồi khắc kư mà niệm chú này 108 biến th́ tai chướng tức thời trừ diệt hết.”
5)- Thần Chú Công Đức Bảo Sơn:
Theo Viên Nhơn Văng Sanh có dẫn chứng Kinh Đại Tập nói rằng: “Nếu người tụng chú này một biến th́ công đức cũng như lễ Kinh Đại Phật Danh bốn vạn năm ngàn bốn trăm biến (45.400), c̣n như phạm tội nặng đang đọa vào địa ngục A T́ mà nhứt tâm tŕ tụng chú này th́ trong lúc mạng chung chắc đặng sanh về bậc Thượng Phẩm Thượng Sanh bên cơi Tịnh Độ mà đặng thấy Phật A Di Đà.”
�
6)- Thần Chú Phật Mẫu Chuẩn Đề:
Câu chú này trích trong Kinh Chuẩn Đề. Bốn câu kệ đầu là: “Khể thủ quy y Tô tất Đế,” v.v... cho đến “Duy nguyện từ bi thùy gia hộ” là của Ngài Long Thọ Bồ Tát. Trong bốn câu kệ:
* Câu đầu là nói về Pháp Bảo; câu hai là nói về Phật Bảo; câu thứ ba là nói về Tăng Bảo; câu thứ tư là nói ḿnh xin nhờ ơn sự gia hộ của Tam Bảo.
*) Khể thủ quy y Tô Tất Đế: nghĩa là cúi đầu quy kính Pháp Viên Thành (pháp nhiệm mầu). Chữ Tô Tất Đế: nguyên tiếng Phạn là Susidhi, Tàu dịch là Diệu Thành Tựu, nghĩa là một pháp có năng lực thành tựu được hết thảy sự lư và thành tựu đặng hết thảy tâm nguyện của chúng sanh rất mầu nhiệm.
*) Đầu diện đảnh lễ Thất Cu Chi (cu đê): nghĩa là thành tâm đảnh lễ bảy trăm ức Phật. Chữ “Cu Chi” hay là “Cu Đê”, nguyên tiếng Phạn là “Koti”, Tàu dịch là bách ức, nghĩa là trăm ức; cho nên trên đây nói ”thất cu chi” tức là số bảy trăm ức vậy.
*) Ngă kim xưng tán Đại Chuẩn Đề: nghĩa là tôi nay xưng tán đức Đại Chuẩn Đề. Chữ “Chuẩn Đề”, nguyên tiếng Phạn là “Candi”, Tàu dịch có hai nghĩa: 1) Thi Vi, 2) Thành Tựu.
Thi Vi: nghĩa là lời nguyện rộng lớn đúng nơi lư và dùng đại trí để dứt vọng hoặc, v́ đủ các nhơn hạnh để ra làm việc lợi tha cho chúng sanh, nên gọi là Thi Vi.
Thành Tựu: nghĩa là từ nơi pháp không mà hiện ra pháp giả rồi thành tựu đặng pháp tịch diệt.
Sở dĩ Chú này xưng là “Phật Mẫu Chuẩn Đề” là nói: Pháp là thầy và thiệt trí, là mẹ của chư Phật, cho nên bảy trăm ức Phật đều dùng pháp “Chuẩn Đề Tam Muội” mà chứng đạo Bồ Đề.
Trong kinh Chuẩn Đề nói rằng: Khi Phật ở vườn Kỳ Đà v́ có tứ chúng bát bộ đông đủ, Ngài nghĩ thương những chúng sanh đời mạt pháp sau này, tội dày phước mỏng, nên mới nhập “Chuẩn Đề Định” mà thuyết thần chú như vầy:
Nam Mô Tát Đa Nẩm, Tam Miệu Tam Bồ Đề, Cu Chi Nẩm, Đát Điệt Tha, Án, Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, Ta bà Ha.
Phật nói: Nếu tŕ chú này măn chín mươi vạn (900.000) biến th́ diệt trừ được các tội thập ác, ngũ nghịch và tứ trọng; cho đến nhà thế tục chẳng luận tịnh hay uế, chỉ cần chí tâm tŕ tụng, liền được tiêu trừ tai nạn bệnh hoạn, tăng trưởng phước thọ. Khi tụng măn 49 ngày, Bồ Tát Chuẩn Đề khiến hai vị Thánh thường theo người ấy hộ tŕ.
Nếu có người hoặc cầu mở trí tuệ, hoặc cầu chống tai nạn, hoặc cầu pháp thần thông, hoặc cầu đạo Chánh Giác, chỉ y theo pháp thiết lập đàn tràng, tụng đủ một trăm vạn (1.000.000) biến th́ đặng đi khắp mười phương Tịnh Độ, phụng thờ chư Phật, nghe cả diệu pháp mà được chứng quả Bồ Đề.�
7)- Thần Chú Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Đà La Ni:
Chú này trích trong Kinh �Đại Thừa Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Như Lai Đà La Ni. Kinh ấy nói: “Đức Thích Ca Thế Tôn nghĩ thương chúng sanh đoản mạng trong đời vị lai, muốn cho thêm được thọ số, hưởng được hạnh phúc, nên Phật nói với Đại Trí Huệ Diệu Cát Tường Bồ Tát rằng: những nhơn loại ở trong cơi Diêm Phù Đề này thọ mạng chỉ đặng trăm tuổi, mà ở trong số đó lại có phần đông người tạo lắm điều ác nghiệp nên bị tổn đức giảm kỷ thác yểu chết non. Nếu như nhơn loại thấy đặng chú này, hoặc biên chép, hoặc ấn tống, hoặc thọ tŕ đọc tụng th́ lại tăng thọ mạng sống ngoài trăm tuổi và qua đời sau mau chứng quả Bồ Đề.”
�
8)- Thần Chú Dược Sư Quán Đảnh Chơn Ngôn:
Thần chú này được trích ra từ nơi Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức. Theo như trong kinh, đức Thích Ca Như Lai nói nếu có chứng bệnh ǵ mà cứ nhứt tâm tŕ chú này trong nước tịnh thủy đủ 108 biến rồi uống vào th́ các bệnh đều lành liền.
C̣n như những người mà trọn đời thọ tŕ chú này th́ đặng khỏi bệnh tật và được sống lâu, đến lúc mạng chung lại được sanh về cơi Tịnh Lưu Ly. Nhưng phải biết rằng: chú này được gọi là “Quán Đảnh” là nói chú này do nơi đảnh quang của Phật mà thuyết ra. Người nào nếu thọ tŕ đọc tụng chú này mà đặng thanh tịnh ba nghiệp (thân, miệng, ư) th́ hào quang Phật chiếu ngay đến nơi đảnh môn của người tŕ tụng ấy một cách mát mẻ như rưới nước cam lồ vậy.
Nên biết ánh quang của Phật khác hơn ánh quang của ma, nguyên v́ ánh quang của ma th́ chói loà khiến cho người ta sợ hăi, c̣n ánh quang của Phật th́ mát mẻ và làm cho ta vui mừng. Vậy ai là người thọ tŕ chú này hoặc niệm Phật cần phải phân biệt rơ hai cái ánh quang nói trên. Chớ đừng thấy ánh quang của ma lậo ḷe trước mắt như ngoại đạo nh́n nến, như kẻ nh́n nhang kia mà nhận lầm cho là thấy tánh.
9)- Thần Chú Quán Âm Linh Cảm Chơn Ngôn:
Đức Quán Thế Âm có ḷng Đại Bi rất tha thiết, bi nguyện của Bồ Tát rất thâm sâu, công đức độ sanh của Bồ Tát lan rộng khắp mười phương. Người nào thành tâm tŕ tụng chú này th́ liền được ḷng Đại Bi của Bồ Tát chắc chắn ủng hộ.
10)- Thần Chú Thất Phật Diệt Tội Chơn Ngôn:
Chú này được trích ra từ trong kinh Đại Phương Đẳng Đà La Ni. Kinh này nói: “Ngài Văn Thù Sư Lợi nghĩ thương về sau đến đời mạt pháp các chúng Tỳ Kheo có phạm tội Tứ Trọng và các chúng Tỳ Kheo Ni có phạm tội Bát Trọng th́ làm sao mà sám hối đặng, nên mới cầu Phật chỉ rơ phương pháp. Lúc ấy Đức Thích Ca Như Lai mới thuyết ra chú này; v́ chú này là chú của bảy vị Phật đời trước thường nói, rất có oai lực làm diệt hết các tội Tứ Trọng, Ngũ Nghịch mà đặng phước vô lượng.
Tứ Trọng, Ngũ Nghịch là tội rất nặng, nếu không phải cách sám hối vô sanh th́ tưởng không thể nào tiêu diệt cho đặng. Nhưng v́ thần chú này là bảy vị Phật đời trước xứng tánh thuyết ra, cho nên những người tŕ tụng niệm niệm cũng phải xứng tánh để đặng lư vô sanh th́ tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt, cũng như nước sôi đổ vào tuyết th́ tuyết liền bị tan biến ngay lập tức.
11)- Thần Chú Văng Sanh Tịnh Độ:
Thần chú này được trích từ trong kinh Bạt Nhứt Thiết Nghiệp Chướng Căn Bổn Đắc Sanh Tịnh Độ Đà La Ni. Thần chú này có công dụng diệt được các trọng tội như: tội Tứ Trọng, Ngũ Nghịch, Thập Ác, Hủy Bán Chánh Pháp. Người nào nếu y pháp mà chí tâm tŕ tụng chú này th́ Đức Phật A Di Đà thường trụ ở nơi đảnh đầu người ấy luôn cả ngày đêm mà ủng hộ, không cho oan gia thừa tiện nhiễu hại, trong lúc hiện thế đặng an ổn và đến khi mạng chung được văng sanh Tịnh Độ.
Cách thức hành tŕ, Trước khi tŕ tụng chú này, hành giả phải rửa ḿnh, súc miệng cho sạch sẽ, ngày đêm sáu thời, thắp hương lễ Phật, qú gối trước bàn thờ, chấp tay cung kính tŕ tụng mỗi thời tối thiểu 21 biến th́ được linh ứng và hoặc tŕ tụng đươc ba vạn (300.000) biến th́ được thấy đặng Phật A Di Đà thọ kư.
12)- Thần Chú Thiện Nữ Thiên:
Thần chú này được trích từ trong kinh Kim Quang Minh. Trong kinh Kim Quang Minh nói rằng: “Nếu chúng sanh nghe nói chú này mà một ḷng thọ tŕ đọc tụng hương hoa cúng dường th́ nhứt thiết những thứ thọ dụng như vàng, bạc, châu báu, trâu dê, lúa thóc đều đặng đầy đủ hết thảy”.
VI.- TỔNG KẾT:
Nên để ư các Kinh Chú của Phật để lại trong Đại Tạng th́ rất nhiều, đa dạng theo mỗi vị Phật tŕnh bày mỗi cách qua kinh nghiệm tu tập của ḿnh. Các Thiền gia thời xưa qua kinh nghiệm của họ rút ra trong Đại tạng một số Kinh Chú theo nhu cầu phổ thông chẳng những cho quần chúng mà cho cả người xuất gia trong thời mạt pháp nghiệp trọng phước khinh ma cường pháp nhược này. Những Kinh Chú mà các Thiền gia chọn ra để tŕ tụng là của những vị Phật, những vị Bồ Tát rất quan hệ với các chúng sanh nơi cơi Ta bà ngũ trược ác thế này. C̣n các Kinh Chú khác của các vị Phật hay của các vị Bồ Tát khác chỉ quan hệ nhiều với các chúng sanh trong các cơi khác không có ngũ trược ác thế như cơi Ta Bà này. Những Kinh Chú mà các Thiền gia chọn ra để hành tŕ có những mục đích như sau:
1)-Những Kinh Tụng nêu trên ngoài sự Tu Huệ của hành giả và c̣n nhờ sự gia hộ của chư Phật, chư Bồ Tát quan hệ giúp hành giả sớm hoàn thành hạnh nguyện đạt đạo.
2)- C̣n các Kinh khác nhằm tu tập bao gồm Văn Huệ, Tư Huệ và Tu Huệ trong lănh vực tự độ và tự giác mà không cần sự gia hộ của chư Phật, chư Bồ Tát quan hệ, được gọi là tự lực cánh sinh.
3)- Các Thần Chú nêu trên mà các Thiền gia chọn lựa được rút ra trong các Kinh Tạng của chư Phật chỉ dạy để các hành giả hành tŕ ngơ hầu đạt được ư nguyện mà không bị phân tâm, không bị loạn tưởng, không bị tẩu hoả nhập ma.
4)- C̣n các Thần Chú khác một số không thấy trong các Kinh Phật mà chỉ thấy trong Mật Tông nếu như hành tŕ mà thiếu sự hướng dẫn chơn truyền qua sự kinh nghiệm của những người đi trước th́ sẽ bị nguy hiểm phân tâm, loạn tưởng, tẩu hoả nhập ma.
Các Thiền gia Việt Nam cũng chọn những Kinh những Chú đă được liệt kê ở trước ngoài những mục đích và ư nghĩa vừa tŕnh bày c̣n có mục đích khác là thể hiện văn hoá Phật Giáo Việt Nam mà các Thiền gia Việt Nam đem sự đạt đạo xây dựng quốc gia. Nh́n theo Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam, Nhị Thời Khoá Tụng mà các Thiền gia Việt Nam thường sử dụng trong khoá lễ hằng ngày dành cho các Thiền sinh hành tŕ, ngoài sự tu tập để chứng đắc và c̣n tiêu biểu cho ba hệ phái Thiền đă từng đóng góp xây dựng quốc gia Việt Nam trên lănh vực văn hoá trải dài hơn 2000 năm lịch sử. Điều đó được thấy như:
a)- Thiền phái Vô Ngôn Thông, Thiền phái Trúc Lâm Tam Tổ đă từng đóng góp xây dựng cho quốc gia Việt Nam trên lănh vực thuần tuư thiền tập.
b)- Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đă từng đóng góp xây dựng cho quốc gia Việt Nam trên lănh vực Thiền Mật Tổng Hợp.
c)- Thiền Phái Thảo Đường đă từng đóng góp xây dựng quốc gia Việt Nam trên lănh vực Thi Ca và Nghệ Thuật.
d)- Thiền phái Liễu Quán đă từng đóng góp xây dựng quốc gia Việt Nam trên lănh vực Thiền Tịnh Song Tu.
Từ những ư nghĩa và giá trị này, chúng ta là người Việt Nam không nên xem thường Nhị Thời Khoá Tụng mà Thiền gia Việt Nam đă chọn và cũng chứng minh rằng các Thiền gia Việt Nam nhờ Nhị Thời Khoá Tụng này được chứng đắc, cho nên mới để lại cho hậu thế hành tŕ.