Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để t́m kiếm sự thực. Sở dĩ phải vay mượn từ "lôgic" (tiếng La tinh là logica, tiếng Hy Lạp là logos) trong ngôn ngữ Tây phương v́ trong tiếng Việt cũng như tiếng Hán không có từ nào tương đương. Tuy nhiên cũng có nhiều học giả đề nghị dịch lôgic học là "nhân minh học" hay "luận lư học", nhưng thật ra th́ các từ ấy không phản ảnh trung thực được ư nghĩa của từ lôgic.
Thật vậy phải công nhận là trong nền tư tưởng của nhân loại không có nhiều hệ thống lôgic đúng với nghĩa của nó. Tại phương Đông, Phật giáo đưa ra một hệ thống biện luận vô cùng đặc thù và độc đáo và đă ảnh hưởng rất sâu đậm trong nền tư tưởng Á châu. Khổng giáo chỉ là một nền triết học đạo đức, Lăo giáo có thể xem là một nền triết học siêu h́nh, nhưng cả hai không đưa ra được một nguyên tắc lôgic nào cả. Các tôn giáo của Ấn độ như Vệ-đà, Bà-la-môn, Ấn giáo chỉ dựa vào nghi lễ hiến dâng và cầu xin hơn là đưa ra một hệ thống suy luận để t́m hiểu sự thực. Để đối đầu với lôgic học của Phật giáo, các trào lưu tư tưởng triết học Ấn độ cũng có đề nghị một số luận lư lôgic nhưng hoàn toàn không vững chắc.
Tại phương Tây th́ nguyên lư lôgic của Aristote (Aristotle, Aristotélès) đă bao trùm toàn bộ nền tư tưởng của thế giới Tây phương từ thời cổ đại cho đến nay ngoại trừ các trào lưu tín ngưỡng độc thần, v́ các nền tín ngưỡng này không hàm chứa một nguyên tắc lôgic nào cả. V́ thế có thể nói rằng nền tư tưởng Tây phương và các trào lưu tín ngưỡng đă phát triển song hành và đối nghịch nhau từ thời trung cổ mà hậu quả mang lại là t́nh trạng xă hội Tây phương ngày nay.
Tóm lại nhân loại có hai hệ thống lôgic chính yếu và quan trọng nhất : một của Đức Phật và một của Aristote. Bài viết ngắn dưới đây trước hết sẽ tŕnh bày vài hàng sơ lược về lôgic của Aristote nhằm mục đích giúp người đọc so sánh và t́m hiểu dễ dàng hơn lôgic của Phật giáo. Riêng phần lôgic của Phật giáo th́ sẽ được tŕnh bày cặn kẽ hơn.
Sơ lược về Lôgic học Aristote
Lôgic là một khoa học t́m kiếm sự thực bằng lư luận, tuy nhiên lôgic cũng có nghĩa là sự mạch lạc của ư nghĩ và lời nói, hay là một chuỗi sự kiện xảy ra tiếp nối nhau một cách hợp lư. Như đă nói qua trên đây, lôgic của triết gia cổ đại Hy lạp là Aristote (-384 - 322, trước Tây lịch tức là sinh sau Đức Phật khoảng 180 năm) đă ảnh hưởng sâu đậm vào toàn thể nền tư tưởng Tây phương, từ các triết gia như Alexandre d'Aphrodise (thế kỷ thứ II) đồng thời với đại sư Long Thụ, thánh Thomas d'Aquin (1224 - 1274) thời Trung cổ đồng thời với Thiền sư Đạo Nguyên, cho đến các triết gia hiện đại như Martin Heiddeger (1889 - 1976),...và kể cả Karl Marx (1818 - 1883) đối với các quan niệm của ông về những giá trị vật chất.
Trên một b́nh diện thật tổng quát th́ Aristote chủ trương khái niệm cho rằng sự "hiện hữu" là một "thực thể" (một chất liệu), và siêu h́nh học chỉ là "khoa học của sự hiện hữu với tư cách là một sự hiện hữu" mà thôi. Nguyên tắc căn bản trong lôgic của Aristote là: " không có một vật thể nào trong cùng một lúc lại vừa có và lại vừa không có một thuộc tính chung " :
- Cái ǵ có, th́ có; cái ǵ không, th́ không.
- Bất cứ một vật ǵ cũng thế, có hoặc là không có; không có cách thứ ba nào khác.
Tóm lại đối với Aristote, sự suy diễn là cách rút tỉa từ một hay nhiều định đề (mệnh đề) đă được biết trước là đúng hay là sai (gọi chung là tiền đề) để mang lại một hay nhiều định đề hay mệnh đề mới được đánh giá là đúng hay là sai tùy theo sự tương quan lôgic của chúng đối với các tiền đề đă được đưa ra từ trước. Nguyên tắc này được cụ thể hoá bằng sự suy diễn gọi là tam đoạn luận.
Tam đoạn luận là cách đưa ra hai mệnh đề mang tính cách dứt khoát và khẳng định và mệnh đề thứ ba dùng làm kết luận. Aristote tŕnh bày về tam đoạn luận như sau: "Nếu a được xác định bởi b, và c được xác định bởi b, th́ nhất thiết a phải được xác định bởi c". Người ta có thể gọi a (thuộc tính chỉ định cho kết luận) là mệnh đề chính, và c (chủ thể của kết luận) là mệnh đề thứ yếu.
Sau đây là một thí dụ điển h́nh về tam đoạn luận thường thấy:
Tóm lại lôgic của Aristote mang tính cách khẳng định (có hay là không có, đúng hay là sai, không chấp nhận sự "lưng chừng"). Tuy nhiên một số học phái lôgic ngày nay đă bác bỏ nguyên tắc này, v́ theo các học phái ấy th́ không nhất thiết chỉ có hai trường hợp khẳng định như thế mà c̣n có một trường hợp thứ ba thuộc vào loại không quyết đoán được (indécidable), có nghĩa không rơ ràng, không dứt khoát, không xác định rơ được.
Lôgic của Aristote có vẻ rất phù hợp với sự cảm nhận của con người trước mọi hiện tượng và có thể đă chi phối sự nhận thức nói chung của con người từ phương Tây cho đến phương Đông. Tuy nhiên Phật giáo đă đưa ra một phương pháp lư luận ngược chiều với quá tŕnh khẳng định của Aristote, chẳng hạn như trường hợp điển h́nh sau đây:
Con ông A biết nói tiếng Anh
Con ông A không biết nói tiếng Anh
Ông A là người không có con
Trong trường hợp trên đây, mệnh đề thứ ba phủ nhận hoàn toàn hai mệnh đề trước, và mục đích của sự phủ nhận đó là tạo ra một sự phi lư để hóa giải trở lại mọi sự khẳng định. Trong kinh sách Phật giáo người ta thường thấy thí dụ về "đứa con của một người phụ nữ hiếm muộn" (tức không hề sinh đẻ).
Lôgic học Phật giáo
Lôgic học Phật giáo được h́nh thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rơ rệt hơn, do đó không nhất thiết phải có cùng những quy tắc mà Aristote đă đưa ra. Logic học Phật giáo không phải là một ngành học riêng biệt mà có thể gọi đấy là những kỹ thuật hay những ứng dụng trực tiếp góp phần vào sự tu tập. Những kỹ thuật hay ứng dụng ấy là ǵ? Mục đích trước hết là để chứng minh một số khái niệm trong Đạo Pháp, sau đó là để t́m hiểu bản thể đích thực của thế giới này. Đối với Phật giáo, thế giới mà chúng ta đang sống vừa "thật" một cách cụ thể, tức có thể nh́n thấy nó, sờ mó được nó và va chạm vào nó, nhưng thế giới đó cũng vừa "không thật" v́ tất cả mọi hiện tượng kể cả tư duy của con người chỉ "thật" một cách tương đối mà thôi v́ chúng biến động không ngừng, tức "hiện ra" và "biến đi" liên tục giống như những "ảo giác". Do đó Phật giáo chủ trương thế giới hiện tượng hàm chứa hai sự thực khác nhau: sự thực tương đối và sự thực tuyệt đối. Lôgic của Phật giáo được căn cứ và xây dựng trên cả hai sự thực ấy v́ thế nên hoàn toàn khác biệt với lôgic của Aristote.
Nếu lôgic Aristote hướng vào việc t́m kiếm sự thực th́ mục đích của lôgic Phật giáo là giúp cho con người tránh khỏi được mọi sai lầm và ảo giác. Để thực hiện mục đích đó Phật giáo đă đưa ra một kỹ thuật giúp chúng ta nh́n thấy phía sau sự biến động của mọi hiện tượng c̣n có một thứ ǵ khác nữa, đó là bản chất tối hậu của hiện thức, cái bản chất tối hậu ấy Phật giáo gọi là Tánh không. Sự quán thấy bản chất tối hậu ấy sẽ giúp chúng ta tránh được mọi sai lầm và ảo giác. Vậy kỹ thuật ấy là ǵ ? Đó là một phương pháp biện luận thật đặc thù gọi là tứ đoạn luận (trétralème) tiếng Phạn là catuscoti. Vậy tứ đoạn luận là ǵ?
Tứ đoạn luận trong Phật giáo
Xin trích dẫn một đoạn trong Trung Bộ Kinh (Najjhima Nikaya, kinh số 72) như sau: "Như Lai [...] thật sâu thẳm, vô biên, không thăm ḍ được, giống như đại dương. Những lời lẽ như hiển-hiện, không-hiển-hiện, hiển-hiện và không-hiển-hiện, không-hiển-hiện cũng không phải là không-hiển-hiện, không thể dùng để diễn tả được". Câu phát biểu trên đây của Đức Phật cho thấy nguyên tắc căn bản của tứ đoạn luận, nguyên tắc đó gồm có bốn mệnh đề thoát ra khỏi sự biện luận thông thường. Trong các kinh điển đặc thù của Nam tông bằng tiếng Pali người ta cũng thấy nêu lên nguyên tắc của tứ đoạn luận như sau:
"Có (ati)
Không có (neti)
Có và không có (ati ca natica)
Không phải có cũng không phải không có (nevati na neti):
Đấy là những lời giáo huấn của Đấng Giác ngộ"
Theo học giả Quentin Ludwig trong quyển sách về Phật giáo của ông (tựa đề Le Bouddhisme, histoire, courant religieux, cultures, nhà xuất bản Eyrolles, 2005, trang 344) th́ Aristote và cả thầy của ông là Platon (- 428 - 347 trước Tây lịch) đều biết đến tứ đoạn luận do Đức Phật thuyết giảng. Tuy nhiên cũng theo học giả này th́ tứ đoạn luận Phật giáo đă làm cho họ phải bực bội và không quyết đoán ǵ được, v́ phép biện luận của Phật giáo mang lại một t́nh trạng bất định hướng, không giải quyết được, không kết luận được. Lư do cũng dễ hiểu v́ các triết gia cổ đại Hy Lạp chỉ thấy có một sự thực tương đối mà thôi và họ chỉ muốn đi t́m một sự khẳng định nào đó, một thứ lôgic duy nhất nào đó. Trong khi ấy th́ Phật giáo lại bác bỏ mọi sư khẳng định quy ước và một thứ lôgic công thức và cứng nhắc.
Aristote trong quyển "Siêu h́nh học" (Métaphysique) đă viết như sau : "Vả lại, thật rơ ràng là biện luận với một đối thủ như thế (tức là tứ đoạn luận) thật không thấy một đối tượng nào cả (đúng thật như thế v́ tứ đoạn luận của Phật giáo là dùng để chứng minh tính cách vô thực thể của mọi hiện tượng). Bởi v́ nó không nói lên một điều ǵ cả, nó không nói là thế này cũng không nói là không phải thế này, nhưng lại nói là thế này và không phải là thế này. Và lại thêm một lần nữa, cả hai mệnh đề ấy liên kết với nhau cũng bị phủ nhận nốt, và lại c̣n nói thêm vừa không phải thế này mà cũng vừa không không-phải-thế-này. Bởi vậy nếu khác hơn như thế th́ phải có một cái ǵ đó đă được xác định sẵn (đấy chính là Tánh không của mọi hiện tượng mà Aristote không thấy và ông đă tỏ ra bối rối một cách rơ rệt). Câu trích dẫn trên đây trích từ quyển Tự điển bách khoa triết học toàn cầu của Georges Bugault trong tiết mục giải thích về chữ Catuscoti tức là tứ đoạn luận của Phật giáo, và cũng xin lưu ư thêm là các phần đóng trong ngoặc kép là do người viết thêm vào để giúp cho người đọc dễ theo dơi. Mặt khác cũng có thể phần trích dẫn trên đây là một trong những bằng chứng mà học giả Quentin Ludwig đă dựa vào đó để cho rằng Aristote (và cả thầy của ông là Platon) đă từng biết đến giáo lư của Đức Phật (?).
Trên một khía cạnh khác có lẽ cũng cần nêu lên là trong ngành lôgic học nói chung ngoài tam đoạn luận của Aristote và tứ đoạn luận của Phật giáo c̣n có nhiều hệ thống lôgic khác nữa, chẳng hạn như lôgic biện chứng (logique dialectique), lôgic toán học, lôgic ngũ đoạn luận của triết học Ấn độ, v.v... Tuy nhiên những hệ thống lôgic đó đều thuộc vào những lănh vực ít hay nhiều cá biệt hoặc không có tầm ảnh hưởng bao quát ngang hàng với hai hệ thống lôgic của Phật giáo và của Aristote.
Ư nghĩa của tứ đoạn luận Phật giáo
Mục đích của tứ đoạn luận Phật giáo là đưa sự biện luận lôgic ra thoát và vượt lên trên sự thực quy ước, có nghĩa là bước vào một thế giới mà nơi đó tất cả đều có thể xảy ra được mà cũng không có thể xảy ra được, đó là cái thế giới của Tánh không. Trong cái Tánh không hay sự trống không của hiện thực th́ tất cả đều "có thể" và đồng thời cũng lại vừa "không có thể". Tóm lại hai mệnh đề thứ nhất của tứ đoạn luận thuộc vào thế giới của sự thực quy ước, và hai mệnh đề sau thuộc vào thế giới của sự thực tối hậu của mọi hiện tượng, vượt thoát ra khỏi mọi quy ước. Bốn mệnh đề của tứ đoạn luận là :
- mệnh đề thứ nhất nêu lên một sự khẳng định.
- mệnh đề thứ hai nêu lên một sự đối nghịch (phản biện) lại với mệnh đề thứ nhất.
- mệnh đề thứ ba là một sự kết hợp giữa hai mệnh đề trên đây (có nghĩa là vừa khẳng định lại vừa phản biện lại sự khẳng định ấy).
- mệnh đề thứ tư là một sự hủy bỏ (hay vô hiệu hóa) cả hai mệnh đề thứ nhất và thứ hai.
Trong kinh Aggi-Vacchagotta thuộc Trung Bộ Kinh (Mjjhima Nikaya), nhà tu khổ hạnh Vacchagotta có hỏi Đức Phật là sau khi tịch diệt th́ Đức Phật có c̣n hiện hữu hay không, và Đức Phật đă trả lời như sau: "Không thể bảo rằng Như Lai c̣n hiện hữu phía sau cái chết, nhưng cũng không thể bảo rằng Như Lại không c̣n hiện hữu, cũng không phải là vừa hiện-hữu và vừa không-hiện-hữu, cũng không phải là vừa không không-hiện-hữu và vừa không-hiện-hữu". Đấy là cách mà Đức Phật đă dùng tứ đoạn luận để trả lời cho Vacchagotta.
Thật ra th́ tứ đoạn luận của lôgic Phật giáo không trái ngược lại với lôgic thông thường, bởi v́ vẫn tôn trọng nguyên tắc không-mâu-thuẫn (non-contradictoire) tượng trưng bởi hai mệnh đề đầu tiên, và đồng thời nguyên tắc ấy cũng tôn trọng cả lănh vực của sự thực tuyệt đối, tuợng trưng bởi hai mệnh đề sau cùng. Do đó lôgic Phật giáo đă phân chia sự hiểu biết thành ra hai lănh vực khác biệt nhau: lănh vực thứ nhất là sự nhận thức (pratyaksa) và lănh vực thứ hai là sự suy diễn (anumana).
Nhận thức là một sự "hiểu biết" thuộc tri thức trực cảm, tức là một sự cảm nhận trực tiếp bằng trực giác khi tiếp xúc với một hiện tượng (một vật thể hay một biến cố). Sự nhận thức đó "dừng lại" trong lănh vực của hiện tượng và chỉ liên quan trực tiếp đến hiện tượng mà thôi, hoàn toàn không vướng mắc vào sự vận hành của trí tưởng tượng hay khả năng diễn đạt và phân biệt của tâm thức. Sự suy diễn thuộc vào lănh vực thứ hai của sự hiểu biết, có nghĩa là một sự hiểu biết dựa vào sự tương quan giữa hai hiện tượng (hai vật thể hay hai biến cố), đó là sự hiểu biết suy lư (connaissance discursive) liên quan với lôgic học. Nếu nói một cách khác th́ sự suy diễn là một cách lập luận bằng tam hay tứ đoạn luận trong chủ đích mang lại một sự hiểu biết nào đó. Muốn hiểu rơ sự khác biệt giữa nhận thức và diễn đạt ra sao th́ cần phải nắm vững khái niệm về ngũ uẩn, tức là năm cấu hợp tạo ra một cá thể con người, trong số năm uẩn đó th́ bốn uẩn thuộc vào lănh vực tâm thần và quá tŕnh vận hành của bốn uẩn tâm thần ấy sẽ tạo ra hai thể dạng hiểu biết tŕnh bày trên đây.
(c̣n tiếp một kỳ)