Trước khi Đức Thế Tôn xuất hiện trên đời, có hai ngôi làng Bà-la-môn cách thành Vương-xá không xa, đó là làng U-pa-ti-xa (Upatissa) và Kô-li-ta (Kolita). Một hôm, vợ của Ru-pa-xa-ri (Ràpasàri), người làng U-pa-ti-xa, cấn thai, và vợ của Mô-ga-li (Moggali), người làng Kô-li-ta cũng cấn thai. Tương truyền rằng hai gia đ́nh này đă ba đời thân thiện và gắn bó với nhau nên họ rất lấy làm vui mừng chăm sóc hai bà mẹ mang thai cho đến ngày khai hoa nở nhụy, và hai bà đă sanh được hai cậu con trai tuyệt vời.
Đến ngày thôi nôi, để đánh dấu hai gia đ́nh côi cả trong làng, họ đặt tên U-pa-ti-xa là Xá-lợi-phất (Sàriputta) cho cậu bé sanh ở làng U-pa-ti-xa, và Kô-li-ta tức Mục-kiền-liên (Moggallàna) cho cậu bé ở làng Kô-li-ta. Khi lớn lên, hai cậu học hành xuất chúng trong các lănh vực nghệ thuật và khoa học. Mỗi khi đi xem cảnh ở hoa viên hay sông hồ, Xá-lợi-phất được 500 chiếc kiệu vàng và Mục-kiền-liên 500 cổ xe ngựa với 500 tuỳ viên theo hầu. Hai cậu học hành và sinh hoạt như hai ông hoàng ở hai ngôi làng nhỏ.
Bấy giờ có một lễ hội truyền thống được tổ chức tưng bừng tại Vương-xá. Hai cậu đến xem nghi thức và ngồi chung trên một chiếc ghế đặc biệt. Cả hai đều biểu lộ t́nh cảm như nhau theo từng t́nh tiết tŕnh diễn: cảnh vui, cả hai đều cười sảng khoái; cảnh buồn, cả hai đều khóc sụt sùi; đến cảnh quyên góp bố thí, cả hai đều dốc túi làm phước. Cả hai hân hoan theo dơi hội diễn trong mấy ngày liền. Rồi một hôm, khi đă lớn khôn, cả hai không c̣n cảm thấy hân hoan, bi lụy hay sẵn ḷng giúp đỡ theo t́nh tiết như xưa. Hai cậu đều suy nghĩ:
- Tại sao ta phải xem hoài cái màn hội diễn khóc cười điên đảo này? Hàng trăm năm qua, bao lớp người đă ngất ngây quằn quại, khóc khóc cười cười theo cảnh đời ngược xuôi xuôi ngược để rồi cùng chung số kiếp đi vào lăng quên. Ta nên t́m đường giải thoát.
Họ ngồi cạnh bên nhau, Mục-kiền-liên nói:
- Xá-lợi-phất, h́nh như bạn không được vui như những ngày nào, trông bạn có vẻ u buồn thống thiết lắm! Bạn đang suy nghĩ ǵ?
- Này Mục-kiền-liên! Vâng, ta đang suy nghĩ. Ta thấy h́nh như không có một niềm vui nào lâu bền, tất cả đều vô vị. Ta phải t́m đường giải thoát đi thôi.
Cả hai tán đồng quan điểm, rủ nhau xuất gia, nhưng chưa biết theo vị đạo sư nào.
Bấy giờ có một du sĩ tên là Xan-ja-da (Saĩjaya) vào thành Vương-xá với nhiều môn đệ tháp tùng. Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên nói:
- Ta sẽ xuất gia theo Xan-ja-da.
Thế là cả hai cho phép 500 tùy viên ra về và nói:
- Hăy đem hết xe kiệu này đi.
Sau đó cả hai cùng với 500 thuộc hạ đến gặp Xan-ja-da xin xuất gia tu học. Từ khi có hai thanh niên ưu tú xuất gia, Xan-ja-da đă đạt đến tột đỉnh uy danh vinh dự. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, cả hai đă nắm được toàn bộ giáo nghĩa của Xan-ja-da. V́ thế họ hỏi ông:
- Thưa Thầy, đây là toàn bộ giáo thuyết mà Thầy đă đạt, hay c̣n ǵ khác?
- Đây là tất cả. Những ǵ ta chứng ngộ hai con đă quán triệt.
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên liền nghĩ:
- Nếu đây là toàn bộ giáo nghĩa của Xan-ja-da th́ làm môn đệ của người cũng chả ích lợi ǵ. Con đường giải thoát chúng ta đang t́m chả dính dáng ǵ với vị đạo sĩ này. Hăy tiếp tục lên đường t́m thầy học đạo!
Từ đó trở đi, nghe nơi nào có đạo sĩ Bà-la-môn uyên bát, họ đều đến tham vấn, nhưng rốt cuộc họ không thỏa măn với một đạo sĩ nào. Thất vọng, họ bèn lui bước trở về. Nhưng trước khi chi tay, Xá-lợi-phất nói với Mục-kiền-liên:
- Này Mục-kiền-liên, nếu ai trong hai ta đạt đạo trước th́ hăy báo cho người kia biết.
Họ đồng ư và chia tay nhau trong niềm thao thức kiếm t́m chân lư.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vân du đến thành Vương-xá, tiếp nhận tu viện Trúc Lâm (Velïuvana) và an trú tại đó. Ngài phái 61 vị A-la-hán lên đường truyền bá chánh pháp và nói:
- Hăy lên đường, này các thầy Tỳ-kheo, hăy lên đường truyền bá chánh tín Tam bảo đến cho mọi người.
Sáng sớm hôm đó, Trưởng lăo A-xa-ji (Assaji) vào thành Vương-xá khất thực. Xá-lợi-phất trên đường đi đến rừng Khổ hạnh th́ gặp Trưởng lăo. Vừa thoáng thấy ngài, Xá-lợi-phất tự nhủ:
- Ta chưa bao giờ thấy một tu sĩ nào hiền ḥa uy nghi như thế. Ngài chắc là đă chứng quả A-la-hán hoặc trên đường tiến đến quả vị đó. Ước ǵ ta được thân cận bên ngài! Ngài xuất gia với ai? Ai là thầy của ngài? Ngài theo giáo thuyết nào?
Nhưng rồi Xá-lợi-phất liền nghĩ:
- Bây giờ không phải là lúc tham vấn vị tu sĩ này. Ngài đang khất thực. Ta nên lặng lẽ theo sau ngài. Những ai muốn làm môn đồ đều phải t́nh nguyện dơi theo từng bước chân đi của Thầy.
Khất thực xong, Trưởng lăo A-xa-ji định ngồi dưới một tàng cây thọ thực. Xá-lợi-phất vội tiến ra phía trước, thi lễ và xin được phép trải tọa cụ hầu ngài. Xong bữa, Xá-lợi-phất dâng nước cho Trưởng lăo và sau đó bày tỏ niềm hân hoan tiếp chuyện với ngài. Xá-lợi-phất tán thán:
- Thưa sư huynh, thân tướng của sư huynh trông thanh tịnh trang nghiêm làm sao! Sắc diện của sư huynh sao mà hồng hào trong sáng thế! Sư huynh xuất gia với ai? Ai là Thầy của sư huynh? Sư huynh theo giáo thuyết nào?
Trưởng lăo A-xa-ji tự nghĩ:
- Các vị du sĩ thường không mấy thân thiện với đạo giáo của ta. Ta sẽ chứng tỏ cho vị du sĩ này nhận ra chỗ thâm diệu, uyên áo của giáo pháp Phật đà.
Ngài tỏ vẻ khiêm tốn:
- Thưa huynh, tôi mới xuất gia tu học, hăy c̣n là một tu sĩ tập sự, chưa tiếp cận được nhiều với giới luật kinh văn; do đó, khó mà lư giải giáo pháp một cách tường tận.
- Thưa sư huynh, bần đạo là Xá-lợi-phất, xin sư huynh giảng giải ít nhiều ǵ cũng được. Bần đạo có thể nhận ra yếu nghĩa bằng trăm ngàn cách.
Trưởng lăo A-xa-ji vừa đọc câu thứ nhứt trong bài kệ bốn câu:
- Các pháp do duyên sanh.
Đôi mắt của Xá-lợi-phất bỗng dưng sáng lên, miệng mỉm cười và trực nhận được lư duyên sanh của vạn hữu. Để nhấn mạnh ư nghĩa của giáo pháp, Trưởng lăo đọc hết bài kệ:
Các pháp do duyên sanh,
Lại cũng do duyên diệt,
Thầy ta là Đức Phật,
Thường thuyết giảng như vậy.
Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, Xá-lợi-phất hỏi:
- Bạch Trưởng lăo, Thầy của chúng ta hiện giờ ở đâu?
- Tại tu viện Trúc Lâm, thưa huynh.
- Thế th́ mời Trưởng lăo về trước. Bần đạo c̣n một người bạn đă từng giao ước với nhau rằng ai t́m ra chánh đạo, người ấy phải báo cho người kia biết. Bần đạo sẽ đưa người bạn đó đến xin quy y với Đức Thế Tôn và xin được hân hạnh cùng tu tập với Trưởng lăo.
Nói xong, Xá-lợi-phất sụp lạy dưới chân Sa-môn A-xa-ji, đi ba ṿng quanh ngài theo chiều kim đồng hồ, rồi ngỏ lời tạm biệt ngài để về gặp Mục-kiền-liên.
Thấy Xá-lợi-phất từ xa đi lại, Mục-kiền-liên ḷng hân hoan phơi phới và tự nhủ:
- Hôm nay nét mặt của bạn ta sao mà tươi sáng thế! Chắc là Xá-lợi-phất đă t́m ra chánh đạo. Mục-kiền-liên hỏi ngay và được Xá-lợi-phất đáp:
- Vâng, thưa huynh! Tôi đă t́m ra chánh đạo; tôi đă nhận ra diện mục của bất tử vô sanh.
Xá-lợi-phất vừa đọc xong bài kệ của Trưởng lăo A-xa-ji th́ Mục-kiền-liên hỏi ngay:
- Thế? Thầy của chúng ta hiện giờ ở đâu?
- Tại tu viện Trúc Lâm.
- Vậy th́ chúng ta cùng đến diện kiến Ngài.
Để tỏ ḷng biết ơn Thầy cũ, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đến thăm đạo sĩ Xan-ja-da với dụng ư thuyết phục ông theo họ đến quy y Phật. Nhưng vừa thấy hai người, Xan-ja-da cất tiếng hỏi:
- Xin chào, hai bạn tu hành đắc đạo rồi chứ?
- Vâng, thưa Thầy! Chúng tôi đă thấy Đức Thế Tôn xuất hiện trên đời. Chánh pháp đă được thuyết giảng và giáo hội đă được thành lập. Thầy đang làm một cuộc hành tŕnh phi chân, vô vọng. Hăy theo chúng tôi đến cầu đạo Đức Thế Tôn. Chúng tôi khuyên Thầy với ḷng chân thành cảm mến.
- Các bạn đi đi, ta không thể!
- V́ sao?
- Ta đă là đạo sư thuyết giảng trước bá quan vạn dân, nay bỗng dưng làm đồ đệ, chuyện đó khôi hài và phi lư lắm! Ta không thể nào làm cái chuyện bê nước pha trà cho Thầy nữa.
Thưa Thầy, hiện nay biết bao vua chúa thần dân cung kính cúng dường Đức Thế Tôn.
- Các bạn nghĩ xem, trên thế gian này số người nào đông hơn, hạng ngu si hay giới thông thái?
- Thưa Thầy, hạng ngu si th́ nhiều, giới thông thái th́ ít.
- Vậy th́ hăy để cho những ai thông thái đến với Gô-ta-ma, c̣n bọn ngu si th́ hăy lại đây với kẻ đần độn này. Các bạn đi đi, ta không đi đâu cả!
- Chúc Thầy khỏe mạnh và rạng danh đạo sĩ!
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đi rồi, đồ chúng của Xan-ja-da liền tan ră. Thấy môn đệ ly tán, cảnh vật điêu tàn, Xan-ja-da uất ức ho lên mấy tiếng và máu trong miệng ông vọt ra xối xả. 500 du sĩ đi với Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên được một đoạn th́ 250 vị quay gót trở về với Xan-ja-da, c̣n 250 vị th́ tiếp tục theo Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đến tu viện Trúc Lâm.
Bấy giờ Đức Thế Tôn đang thuyết pháp giữa đại chúng, thấy hai du sĩ từ xa đi lại, Ngài dang tay, nói:
- Này các thầy Tỳ-kheo, hai bạn Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đến ḱa, hỡi hai đệ tử vĩ đại của ta!
Hai vị du sĩ đảnh lễ Đức Thế Tôn và thưa:
- Bạch Thế Tôn, chúng con đến đây với mục đích duy nhất là xin được xuất gia tu học với đại chúng. Mong Thế Tôn từ bi chấp thuận cho chúng con. Namo Sakya Muni Buddha!
Đức Thế Tôn nói:
- Hăy đến đây, này các thầy Tỳ-kheo! Chánh pháp đă được thuyết giảng một cách tốt đẹp. Hăy sống đời phạm hạnh. Sống đời phạm hạnh th́ hết sạch khổ đau.
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên liền có y bát như hai vị Trưởng lăo đă tu hành cả trăm năm.
Với sự hiện diện của hai vị đại đệ tử này, chánh pháp được thuyết giảng mỗi ngày một thêm lan rộng, mặc dù Mục-kiền-liên sau bảy ngày và Xá-lợi-phất sau mười bốn ngày quy y thọ giới mới chứng đạt thánh quả và thành tựu trí tuệ viên măn.
Một hôm, nhân lúc thuyết giảng về lư vô thường, vô ngă và duyên sinh, Đức Thế Tôn hỏi Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên v́ sao từ giă giáo thuyết và phương pháp tu hành của Xan-ja-da, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên thuật lại quá tŕnh thao thức kiếm t́m chân lư, đặc biệt là đụng phải tà kiến, hoài nghi, bất tín nhân quả của Xan-ja-da. Đức Thế Tôn mỉm cười, đọc kệ:
Phi chân tưởng chân thật,
Chân thật thấy phi chân.
Ai ôm ấp tà vọng,
Không bao giờ đạt chân.
Chân thực biết chân thực,
Phi chân biết phi chân,
Ai nuôi dưỡng chánh hạnh,
Ắt hẳn đạt được chân.
(PC. 11, 12)