Phật Giáo là ǵ?
Nguyên tác Anh Ngữ:
Venerable Ajahn Brahmavamso
Việt dịch:
Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Lời ngỏ: Hơn 2500 năm qua, tôn giáo mà ngày nay người ta gọi là Phật Giáo từng là nguồn cảm hứng chính yếu cho nhiều nền văn minh thành công, cội nguồn của những thành tựu văn hóa vĩ đại, và là một sự hướng dẫn lâu dài đầy ư nghĩa cho đời sống tâm linh của hàng triệu người. Ngày nay, có hơn sáu trăm triệu người trên thế giới đang sống và tu tập theo giáo lư của Đức Phật. Vậy Đức Phật là ai và giáo lư của Ngài dạy những ǵ ?
Đức Phật: Ngài đản sinh vào năm 624 trước Tây lịch (trTL) có tên là Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhatta Gotama) vốn là một hoàng tử của một tiểu vương quốc ở gần biên giới Ấn Độ và Nepal ngày nay. Vị hoàng tử này sống trong cảnh xa hoa nhung lụa của một bậc vua chúa, nhưng không có một lạc thú vật chất nào có thể che giấu sự bất toàn của cuộc sống đối với người thanh niên ham biểu biết sự thật một cách dị thường này. Vào năm hai mươi chín tuổi (595 trTL), Ngài đă rời bỏ cung điện để đi t́m ư nghĩa sâu xa của đời sống trong rừng núi hoang vu ở miền đông bắc Ấn Độ. Ngài đă học với các bậc đạo sư và triết gia thông thái nhất thời đó, nhưng các vị này không thể cung cấp những lời giải đáp mà ngài đang t́m kiếm. Sau đó ngài đă áp dụng pháp tu khổ hạnh khắc nghiệt nhất, nhưng ngài cũng không chứng đắc được ǵ cả.
Rồi vào năm ba mươi lăm tuổi, trong một đêm trăng tṛn tháng Vesakha năm 589 trTL, ngài đă ngồi thiền định dưới cội Bồ Đề trong khu rừng Ưu Lâu Tần Loa gần bờ sống Ni Liên Thiền (Neranjara). Dùng sự trong sáng khác thường của tâm trí với trạng thái thiền sâu xa, sức mạnh trí tuệ được phát sinh trong trạng thái đó, ngài quán sát sự thật của tâm trí, vũ trụ và đời sống. Cuối cùng ngài đă đạt đến giác ngộ vô thượng và từ đó trở đi ngài được gọi là Phật (Buddha). Sự giác ngộ của ngài là trí tuệ bao quát và sâu xa nhất, thông suốt thật tánh của tâm trí cũng như vạn vật. Sự giác ngộ này không phải là một sự mặc khải do một đấng thiêng liêng nào đó ban cho, mà là một sự khám phá chứng nghiệm của chính ngài, có nền móng từ những giai tầng thiền định sâu xa nhất. Đạt đến giác ngộ có nghĩa là ngài đă giải thoát khỏi sự trói buộc của tham ái và vô minh, có nghĩa là ngài đă giải trừ được mọi h́nh thức đau khổ và đạt được an lạc vĩnh cửu.
Giáo lư của Đức Phật: Sau khi thành đạo và trong bốn mươi năm kế tiếp, Đức Phật dạy một đạo lư mà khi tinh tấn làm theo, mọi người không phân biệt nam nữ, chủng tộc hay giai cấp, đều cũng sẽ đạt đến giác ngộ viên măn như ngài. Những giáo lư được gọi là “Dhamma”, có nghĩa là thật tánh của vạn vật hay sự thật ở bên dưới sự hiện hữu của mọi vật. Bài viết này không thể tŕnh bày cặn kẽ tất cả những giáo lư của Đức Phật nhưng bảy đề mục sau đây sẽ cung cấp chúng ta một cái nh́n bao quát về những ǵ Phật đă dạy.
1/ Cách t́m hiểu chân lư: Đức Phật mạnh mẽ cảnh cáo chúng ta không nên tin vào một điều ǵ một cách mù quáng, và ngài khuyến khích cách t́m hiểu sự thật một cách chân xác. Ngài cho thấy sự nguy hiểm của việc thiết lập niềm tin chỉ dựa trên những điều sau đây: nghe nói lại, truyền thống, tập tục, v́ nhiều người nói điều đó, thẩm quyền của kinh sách cổ truyền, lời của một đấng siêu nhiên, do tin vào các vị thầy, các vị trưởng thượng và các vị Thầy thân cận của ḿnh. Thay v́ chỉ tin theo những điều này, mọi người nên giữ cho tâm trí của ḿnh phóng khoáng và khảo sát kinh nghiệm đời sống của chính ḿnh. Khi tự ḿnh nhận thấy một giáo lư nào đó phù hợp với kinh nghiệm của bản thân và giáo lư đó đưa đến an lạc cho ḿnh và cho mọi người, chỉ khi đó chúng ta mới chấp nhận và tin theo giáo lư đó.
Tất nhiên nguyên tắc này cũng ứng dụng cho những giáo lư của Đức Phật. Chúng ta nên khảo sát giáo lư này qua sự sáng suốt của tâm trí vốn phát sinh trong khi thực hành thiền quán. Khi việc hành thiền đă thuần thục hơn, chúng ta sẽ tự xét những giáo lư này với trí minh sát của ḿnh, và chỉ khi đó những giáo lư này mới trở thành chân lư giải thoát của chúng ta.
Người t́m hiểu đạo pháp cần phải có đức tính khoan dung. Khoan dung không có nghĩa là tin nhận tất cả mọi ư kiến hay quan điểm, mà có nghĩa không giận hờn hay ghét bỏ những điều ǵ ḿnh không chấp nhận. Về sau, trên lộ tŕnh học đạo, những ǵ mà lúc ban đầu chúng ta không đồng ư có thể được coi là sự thật. Vậy trong tinh thần t́m hiểu sự khoan dung, tiếp theo đây là một số giáo lư căn bản của Đức Phật.
2/ Tứ Diệu Đế: Giáo lư chính yếu của Đức Phật không nhắm vào việc lư luận về một thượng đế, đấng sáng tạo hay nguồn gốc của vũ trụ vạn vật, giáo lư đó cũng không nhắm đến việc đạt tới một cơi trời vĩnh hằng. Giáo lư này nói ngay đến thực tại đau khổ của con người và sự cấp thiết phải t́m ra con đường giải thoát vĩnh viễn khỏi mọi h́nh thức đau khổ. Đức Phật đưa ra tỉ dụ về một người bị trúng một mũi tên tẩm thuốc độc mà trước khi được cứu chữa lại muốn biết ai đă bắn mũi tên đó, người bắn ở đâu và thuộc giai cấp nào, đă dùng loại cung nào, mũi tên đă được làm bằng chất liệu ǵ.v.v.. Người bị trúng tên này chắc chắn sẽ chết trước khi những câu hỏi của ḿnh được trả lời. Cũng giống như vậy, Đức Phật dạy rằng việc làm cần thiết và cấp thời nhất của chúng ta là t́m sự giải thoát khỏi đau khổ hiện tại, để không c̣n phiền năo và đạt được an lạc. Việc lư luận triết học chỉ có tầm quan trọng thứ yếu và tốt nhất nên để lại cho đến khi chúng ta đă tu tập tâm trí tới tŕnh độ có khả năng khảo sát vấn đề một cách rơ ràng và tự trông thấy sự thật cho chính ḿnh. Vậy giáo lư trung tâm của Đức Phật mà tất cả những giáo lư xoay xung quanh là Tứ Diệu Đế hay bốn sự thật cao quư.
a/ Khổ đế: Hết thảy chúng sinh, đều phải chịu đủ loại khổ đau, sợ hăi và thất vọng. Đời sống là một sự đau khổ của sinh, lăo, bệnh và chết.
b/ Tập đế: Nguyên nhân đưa đến đau khổ là tham muốn lạc thú, vật chất. Tham muốn được nuôi dưỡng bằng những điều thích và không thích, được thúc đẩy bởi ảo tưởng “ta” và “cái của ta” vốn phát sinh từ sự không hiểu hết tính chất chân thật của thực tại đời sống.
c/ Diệt đế: Đau khổ sẽ được chấm dứt khi không c̣n tham muốn. Đau khổ kết thúc trong chứng nghiệm giác ngộ. Đây là sự đạt giác ngộ hay Niết bàn giải thoát. Giác ngộ là buông bỏ hoàn toàn ảo tưởng về một tự ngă hay linh hồn có tính chất độc lập và thường tồn. Người giác ngộ được gọi là A La Hán (Arahant).
b/ Đạo đế: Sự giác ngộ an lạc đạt được bằng cách áp dụng một pháp tu, đó là Bát Chánh Đạo. Người ta sẽ sai lầm khi gọi giáo lư này là bi quan mà đúng hơn là Phật giáo rất thực tế ở chỗ đối diện thẳng thắn với sự thật đau khổ của cuộc đời, và Phật giáo lạc quan ở chỗ chỉ cho mọi người thấy sự chấm dứt đau khổ, đó là niết bàn, là sự giải thoát ngay trong kiếp sống này. Những người đă đạt được sự an lạc tối hậu này là những tấm gương gây cảm hứng cho ta thấy một cách xác quyết rằng Phật Giáo không bi quan một chút nào cả, mà là một đạo pháp dẫn tới phúc lạc đích thực.
3/ Trung Đạo hay Bát Chánh Đạo: Con đường dẫn tới giải thoát khổ đau được gọi là Trung Đạo v́ nó tránh hai cực đoan, đó là hưởng thụ lạc thú vật chất và ép xác khổ hạnh. Chỉ khi nào thân thể được thoải mái với những tiện nghi hợp lư mà không hưởng thụ những lạc thú vật chất một cách quá đáng, th́ tâm trí mới có sự trong sáng và khỏe mạnh để hành thiền và chứng ngộ chân lư. Pháp tu Trung Đạo là siêng năng vun bồi đức hạnh, hành thiền, và đạt đến trí tuệ, là những pháp tu được giải thích chi tiết trong Bát Chánh Đạo, đó là tám điều chánh đưa đến an lạc và giác ngộ: bao gồm: Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng là trau dồi đức hạnh. Đối với Phật tử tại gia th́ cố gắng giữ năm giới: 1/ Không giết người hay các loài sinh linh khác; 2/ Không cố ư lấy tiền bạc và tài sản của người khác; 3/ Không tà dâm; 4/ Không nói dối, nói lời độc ác, nói lời thêu dệt và nói lời hai lưỡi; 5/ Không uống rượu hay các chất ma túy, là những thứ làm suy yếu sự chánh niệm và ư thức về đạo đức. Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định, là nói đến việc hành thiền vốn có tính cách thanh lọc tâm trí qua chứng nghiệm trạng thái an tĩnh nội tâm và hành thiền c̣n có tích cách tăng cường cho tâm trí thông hiểu ư nghĩa của đời sống. Chánh Kiến và Chánh Tư Duy là sự hiển lộ của Phật trí, chấm dứt mọi khổ đau, chuyển hóa bản thân và đạt được sự an lạc bất biến cùng với từ bi vô lượng.
4. Nghiệp báo: Tiếng Phạn gọi là “ Kamma” có nghĩa là “ nghiệp” hay hành động, ở đây muốn nói đến luật nhân quả nghiệp báo. Theo luật này th́ có những hậu quả không thể trốn tránh được một khi chính ḿnh đă hành động. Nghiệp được phát sinh qua thân, miệng và ư, làm tổn thương cho ḿnh, cho người khác hay cả hai, đó được gọi “ ác nghiệp”, nghiệp phát xuất từ động lực tham lam, sân hận và si mê, và mang lại nghiệp quả đau khổ người tạo, chúng ta nên tránh tạo những loại nghiệp này. Ngược lại, những hành động qua thân, miệng và ư, đưa đến kết quả an vui cho ḿnh, cho người hoặc cả hai, những hành động như vậy gọi là “thiện nghiệp”, có động lực từ ḷng từ bi, trí tuệ, và v́ chúng mang lại kết quả an lạc hạnh phúc, chúng ta nên tạo những nghiệp như thế này càng nhiều càng tốt. Những ǵ con người trải qua trong đời sống này là hậu quả của những nghiệp báo mà họ đă tạo ra trong quá khứ. Khi những điều bất trắc xảy ra, thay v́ buộc tội hay bắt lỗi người khác, người ta có thể nh́n thấy những lỗi lầm này từ những hành vi quá khứ của chính ḿnh. Nếu nh́n thấy được quả báo như thế, sẽ làm cho ta có ư thức hơn trong những sinh hoạt hiện tại và tương lai của ḿnh. Khi hạnh phúc xuất hiện, thay v́ xem nó như một sự kiện tự nhiên, người ta có thể nh́n thấy điều tốt đó phát xuất từ những thiện nghiệp trong quá khứ. Nếu có thể nh́n thấy thiện nghiệp và hưởng thọ kết quả tốt trong đời này, sẽ khuyến khích người ta tạo nhiều nghiệp tốt hơn nữa trong tương lai.
Đức Phật nói rằng không có một chúng sinh nào có thể ngăn cản hoặc trốn chạy khỏi quả báo một khi nghiệp đă được tạo. Khi học được chân lư rằng nhân nào quả nấy, gieo gió gặt băo, đem niềm vui cho người, ḿnh sẽ được hạnh phúc, gây khổ đau cho người, ḿnh sẽ chịu sự bất hạnh; sẽ giúp cho người ta không tiếp tục làm điều ác trong mọi h́nh thức và cố gắng làm mọi việc lành như bố thí, tŕ giới, niệm Phật, thiền định... Dù không thể tránh được nghiệp quả xấu đă tạo, nhưng chúng ta có thể giảm thiểu sự nghiêm trọng của quả báo; một muỗng muối pha trong một ly nước có thể làm cho ly nước rất mặn, trong khi một muỗng muối pha trong một hồ nước sẽ khó thay đổi được vị của nước. Tương tự, quả báo từ nghiệp ác của một người chưa có thói quen làm việc thiện, họ sẽ chịu đau khổ nhiều ở tương lai, trong khi quả báo từ nghiệp xấu đó ở một người có thói quen tu nhơn tích đức sẽ gặp quả khổ ít hơn hoặc quả khổ sẽ tan biến mất. Như vậy luật nhân quả tự nhiên này đă trở thành động lực và lư do chính đáng giúp cho con người tu luyện đạo đức và phát triển t́nh thương vô điều kiện trong xă hội của chúng ta.
5/ Luân hồi: Đức Phật đă nhớ rơ nhiều kiếp trước của ngài. Ngay cả ngày nay nhiều tu sĩ Phật Giáo và cư sĩ tại gia cũng có khả năng nhớ kiếp trước của ḿnh. Kư ức mạnh mẽ như vậy là kết quả của việc hành thiền sâu xa. Đối với những người nhớ lại kiếp trước của ḿnh, luân hồi hay sự tái sinh nhiều kiếp đă trở thành một sự kiện được xác lập, đặt đời sống này trong một quan điểm đầy ư nghĩa.
Luật nhân quả chỉ có thể được hiểu trong khuôn khổ sự kiện người ta trải qua nhiều kiếp sống liên tiếp, v́ có những khi phải mất một thời gian dài như vậy để một hành động sản sinh nghiệp quả. Do những nghiệp tốt trong đời sống như bố thí, từ bi, giữ giới, đức hạnh và giúp đỡ người khác, người ta có thể có sự tái sinh thuận lợi trong kiếp sau. Như vậy không có nghĩa là người ta sẽ tái sinh trong một gia đ́nh giàu có hay được sức khỏe tốt, nhưng có thể sinh ra trong một hoàn cảnh mà nhu cầu vật chất được cung ứng đầy đủ và thuận lợi cho việc được biết tới giáo pháp, thực hành tu tập và đạt đến niết bàn an lạc. Người ta có thể sinh ra trong một gia đ́nh có nghề nghiệp không tốt, có thể bị lôi cuốn vào môi trường xấu này và không được biết đến hay không thực hành giáo pháp. Nhiều người trẻ tuổi thuộc những gia đ́nh giàu có đă nghiện ma túy và nhiều điều không tốt, hủy hoại đời sống của ḿnh, trong khi có những người trẻ thuộc những gia đ́nh b́nh thường được nuôi dạy trong t́nh thương, sự chăm sóc và sự hướng dẫn đúng đắn trở thành những người trưởng thành lương thiện và có ích cho xă hội. Do thiện nghiệp đă tạo trong quá khứ mà họ được sinh ra trong những gia đ́nh tốt. Ngược lại, việc sinh ra trong những gia đ́nh rất giàu có có thể là một chướng ngại cho việc tu tập tự phát triển trong Chánh Pháp. Với thiện nghiệp đă tạo trong kiếp trước, đă có nhiều trường hợp người ta rời khỏi gia đ́nh giàu có của ḿnh để sống đời tu hành. V́ vậy sự kiện sinh ra trong một gia đ́nh giàu có hay nghèo nàn, sinh ra có sức khỏe hay đau bệnh, không phải là những điều chính yếu nói lên những nghiệp quá khứ, mà điều quan trọng hơn là người ta có gặp được Chánh pháp hay không, có được nghe nói tới, thực hành và chứng nghiệm Giáo pháp và đạt được niết bàn an lạc hay không.
Sự tái sinh không chỉ diễn ra trong cơi người. Đức Phật dạy rằng cơi người chỉ là một trong những cơi giới khác nhau mà thôi. Có đến 28 cơi trời khác nhau và có nhiều cơi giới thấp hơn và khắc nghiệt hơn cơi người, như cơi thú và cơi ma quỷ. Không những chúng ta có thể đi đầu thai vào bất cứ cơi nào ở kiếp sau mà có thể chúng ta đă tái sinh qua lại trong nhiều cơi giới đó rồi trong quá khứ. Điều này giải đáp một quan điểm phản đối thông thường chống lại thuyết luân hồi: “làm ǵ có sự tái sinh trong khi ngày nay dân số trên thế giới nhiều gấp mười lần con số của một thế kỷ trước?”. Câu trả lời là những người đang sống trên thế giới ngày nay đă tái sinh về từ nhiều cơi giới khác nhau.
Khi biết rằng người ta đă qua lại những cơi giới khác nhau, chúng ta sẽ tôn trọng hơn và từ bi hơn với các sinh linh trong cơi đó. Thí dụ người ta sẽ không làm tổn hại các loài vật khác khi đă nh́n thấy rơ ràng mối liên hệ luân hồi giữa loài thú và loài người.
6/ Không có Đấng sáng thế: Đức Phật đă từng nói rằng không có Thượng Đế cũng như không một ai có quyền can thiệp vào sự vận hành của nghiệp quả của chúng ta. V́ vậy, Phật Giáo dạy người ta nhận trách nhiệm đầy đủ cho chính ḿnh. Thí dụ, nếu muốn giàu có, hăy bố thí, tín nhiệm và chăm chỉ làm việc, và nếu muốn thác sinh về cơi trời, hăy luôn luôn tử tế với người khác và thực hành mười điều thiện (không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói láo, không nói lời thêu dệt, không nói lời độc ác, không nói lời hai lưỡi, không tham lam, không sân hận và không si mê). Không có Thượng Đế nào để cầu xin được ban ơn, hay nói một cách khác, không thể có sự mua chuộc hoặc can thiệp nào trong sự vận hành của luật nhân quả.
Tín đồ Phật Giáo có tin rằng có một Đấng Tối Cao sáng tạo vũ trụ hay không? Trước hết, người Phật tử sẽ hỏi rằng bạn nói tới loại vũ trụ nào. Từ khi có tiếng nổ lớn khai sinh ra vũ trụ cho đến bây giờ, vũ trụ của chúng ta chỉ có là một trong vô số vũ trụ trong cái nh́n của Phật Giáo về vũ trụ quan. Khi một chu kỳ của vũ trụ chấm dứt th́ một chu kỳ khác bắt đầu, cứ như thế măi, theo quy luật tự nhiên và không có lúc khởi đầu nào có thể được t́m thấy. Qua quá tŕnh đó, một Đấng Sáng thế là thừa và là không cần thiết.
Không có một sinh linh nào được xem là Đấng Cứu Rỗi Tối Cao, v́ các vị thần, các vị trời, các loài thú và tất cả các loài chúng sinh khác đều bị lệ thuộc vào luật nhân quả. Ngay cả Đức Phật cũng không có quyền để cứu vớt ai, mà ngài chỉ người dẫn đường, đưa ra chân lư để giúp người t́m lối thoát. Mỗi người phải nhận trách nhiệm cho hạnh phúc tương lai của đời ḿnh, c̣n nếu giao phó trách nhiệm này cho người khác th́ đó là một điều tai hại.
7/ Ảo tưởng về “linh hồn”: Đức Phật dạy rằng không có “ linh hồn” nào cả, không có phần bên trong cốt yếu và thường tồn nào của một chúng sinh. Cái mà ta gọi là “sinh vật”, dù là người hay một loài nào khác, có thể được xem là sự kết tụ tạm thời của nhiều thành phần và cùng hoạt động, khi đầy đủ nó được gọi là “sinh vật”, nhưng khi những thành phần đó tách rời nhau và những hoạt động đó ngừng lại th́ nó không được gọi là “ sinh vật” nữa. Giống như một cái máy vi tính được ráp với nhiều bộ phận để hoạt động, chỉ khi được ráp xong và làm những công việc hoà hợp với nhau, nó mới được gọi là “máy vi tính”, nhưng khi nó được tháo rời và những hoạt động ngừng lại th́ nó không được gọi là “máy vi tính” nữa. Không có phần bên trong cố định và thường tồn nào mà chúng ta có thể thực sự gọi là “máy tính” cả, và giống như vậy, không có phần bên trong cốt yếu và thường tồn nào có thể được t́m thấy mà chúng ta có thể gọi là “linh hồn”.
Không có “linh hồn” nhưng sự tái sinh hay luân hồi vẫn xảy ra. Hăy xét lại tỉ dụ này: trong một ngôi chùa, một cây nến đă cháy gần hết và sắp tàn. Một tu sĩ lấy một cây nến mới và châm lửa nó từ cây nến sắp tàn kia. Ngọn nến cũ tắt nhưng ngọn nến mới cháy sáng. Cái ǵ đă chuyển từ cây nến cũ sang cây nến mới? Chỉ có sự liên hệ nhân duyên chứ không có “vật” ǵ chuyển sang cả. Cũng giống như vậy, chỉ có sự liên hệ nhân duyên giữa kiếp trước và kiếp hiện tại của chúng ta chứ không có “linh hồn” nào chuyển sang cả.
Đức Phật nói rằng tà kiến về “linh hồn” là nguyên nhân của mọi đau khổ. Ảo tưởng “linh hồn” hiển lộ như “ta” (tự ngă), chức năng không thể ngăn cản được của tự ngă là điều khiển hay kiểm soát người khác. Những tự ngă lớn muốn điều khiển thế giới, những tự ngă trung b́nh có sức kiểm soát khung cảnh gia đ́nh, cái nhà và nơi làm việc của ḿnh, và tất cả những tự ngă đều cố gắng điều khiển cái mà họ xem là thân thể và tâm trí của ḿnh. Sự điều khiển và kiểm soát như vậy biểu lộ những cảm xúc như thương và ghét, và hậu quả của nó là không có sự an tĩnh nội tâm cũng như ḥa hợp ngoại cảnh. Chính tự ngă này t́m cách thủ đắc tài sản, khống chế người khác và khai thác môi trường. Việc làm của nó là t́m hạnh phúc cho ḿnh nhưng nó là nguyên nhân làm phát sinh đau khổ. Nó muốn được thoả măn nhưng chỉ thấy sự bất măn. Sự đau khổ bám rễ sâu như vậy không thể chấm dứt trừ khi chúng ta siêng năng tu tập thiền định, trí tuệ phát sinh và nhận ra rằng ư tưởng “ta” và “của ta” chỉ là ảo ảnh, là cái không thật có.
Bảy đề mục trên là một phần trong những điều cốt yếu mà Đức Phật đă dạy. Bây giờ, để hoàn chỉnh bài viết tŕnh bày sơ lược về Phật Giáo này, chúng ta xét coi những giáo lư này đă được thực hành như thế nào ngày nay.
Các tông phái Phật Giáo: Người ta có thể nói chỉ có một loại h́nh Phật Giáo và đó là bộ sưu tập lớn của những giáo lư mà nguyên thủy Đức Phật đă dạy. Những giáo lư này ở trong kinh điển tiếng Pali, những kinh sách cổ truyền của Phật Giáo Theravada, được chấp nhận rộng răi như những cuốn sách cổ nhất và đáng tin cậy nhất ghi lại những lời dạy của Đức Phật.
Sau khi Đức Phật thành đạo, ánh sáng giác ngộ của Ngài đă chiếu khắp mọi nơi, hàng vạn người dân Ấn, từ sĩ, nông, công, thương, mọi tầng lớp của xă hội Ấn đều thừa hưởng được kết quả giác ngộ của Ngài. Về sau, Chánh pháp đă có mặt ở khắp Ấn Độ và lan tỏa đến các quốc gia láng giềng. Từ hạ lưu của sông Hằng đi về phía Đông, phía Nam tới bờ sông Caodaveri, phía Tây tới bờ biển Á-rập, phía Bắc tới khu vực Thaiysiro, đâu đâu cũng có sự ảnh hưởng của giáo lư Phật-đà, và người dân nơi ấy sống trong sự ḥa b́nh và hạnh phúc. Trong triều đại của Hoàng Đế Asoka thuộc Vương Triều Maurya (thế kỷ thứ III trước TL), Phật giáo đă bắt đầu truyền bá sang các vùng biên giới của đại lục. Phật giáo nguyên thủy, xuất phát từ miền nam Ấn Độ, rồi được truyền sang Tích Lan, từ Tích Lan truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào...Phật giáo tại các quốc gia này c̣n được gọi là Phật giáo Nam Truyền và Phật tử tụng Kinh bằng ngôn ngữ Pali. Phật Giáo phát triển từ miền Bắc Ấn Độ vượt qua dăy núi Hindu và sông Amua ở miền Trung Afghanistan, rồi vượt qua cao nguyên Pamia, vào Tân Cương Trung Quốc, từ đó đến Hà Tây, Trường An và Lạc Dương. Tiếp đó Phật giáo từ Trung Hoa truyền đến các nước lân cận như Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Và một con đường khác là từ Ấn Độ truyền sang Nepal, vượt qua dăy núi Hymalaya, vào Tây Tạng, rồi từ Tây Tạng truyền vào một số tỉnh lỵ của Trung Hoa và một số vùng thuộc bộ tộc Buryat của Mông Cổ và Xiberi. Phật Giáo trong các quốc phía bắc này tụng Kinh phần lớn bằng ngôn ngữ Sanskrit hoặc được dịch sang tiếng mẹ đẻ của họ.
Sự thích hợp của Phật Giáo ngày nay: Quả thật vậy, ngày nay Phật Giáo tiếp tục được chấp nhận mỗi lúc mỗi rộng răi hơn ở nhiều xứ bên ngoài quê hương của ḿnh. Qua sự chọn lựa cẩn thận của ḿnh, nhiều người trên thế giới đang tin theo đạo lư ḥa b́nh, từ bi và có trách nhiệm của Phật Giáo.Giáo lư về luật nhân quả của Phật Giáo cống hiến cho mọi người một nền móng, lư do công bằng và vững chắc để sống một đời sống đạo đức. Người ta dễ hiểu tại sao một sự chấp nhận rộng răi hơn luật nhân quả sẽ đưa bất cứ một quốc gia nào tiến tới một xă hội vững mạnh hơn, có ư thức hơn và đạo đức nhiều hơn.
Giáo lư về luân hồi đặt kiếp sống ngắn ngủi hiện tại của chúng ta vào một cái nh́n rộng lớn hơn, quan tâm nhiều hơn đến hai việc lớn của đời ḿnh, đó là sống và chết, biết chuẩn bị cho cái chết tốt, chúng ta sẽ sống tốt. Sự hiểu biết về thuyết luân hồi giải trừ rất nhiều sự bi thảm và đau khổ xung quanh sự chết và chuyển sự chú tâm của chúng ta tới phẩm chất của đời sống hơn là chỉ chú ư đến độ dài của nó.
Ngay từ lúc đầu việc thực hành thiền quán đă là tâm điểm của Phật Giáo. Ngày nay, thiền quán càng ngày càng phổ thông khi sự lợi ích của nó đối với tâm linh và thể xác đă được chứng minh và được biết tới rộng răi hơn trong xă hội. Khi sự căng thẳng, bức xúc được nh́n thấy là một nguyên nhân chính yếu đưa đến sự khổ đau cho con người, th́ pháp tu thiền định trong đời sống hàng ngày lại càng trở nên được ưa chuộng.
Thế giới hôm nay quá nhỏ bé và đầy hiểm họa nếu chúng ta sống trong sân si và đơn độc, v́ thế ḷng bao dung và tinh thần từ bi rất quan trọng đế áp dụng. Những phẩm chất này của tâm, cốt yếu của hạnh phúc, chỉ được h́nh thành trong thiền định Phật giáo và thực hành tinh tấn trong đời sống hằng ngày.
Tha thứ, hoan hỷ, bất hại và từ bi là những “nhăn hiệu” nổi tiếng của Phật Giáo được ban tặng tự do rộng răi cho chúng sinh kể cả loài thú, và quan trọng nhất là cho chính ḿnh. Trong Phật Giáo không có chỗ cho mặc cảm tội lỗi hay sự tự ghét ḿnh, biết lỗi th́ sám hối, chấm dứt tạo nghiệp ác, cố gắng làm điều lành, để nghiệp được chuyển, nghiệp chuyển th́ cuộc đời ḿnh sẽ thay đổi và thăng hoa.
Những giáo lư và những pháp thực hành này mang lại từ bi, an lạc và trí tuệ, vốn là những đặc tính của Phật Giáo trong hơn hai mươi lăm thế kỷ qua và rất cần thiết cho thế giới ngày nay. Trong suốt chiều dài lịch sử của Phật Giáo, không có một cuộc chiến nào được gây ra nhân danh bởi Phật Giáo. Tính chất hiền ḥa và khoan dung này phát sinh từ một triết thuyết giác ngộ thâm diệu và khiến cho bức thông điệp của Đức Phật vượt không gian, thời gian và phù hợp một cách sống động với mọi thời đại.
Trích dịch từ “ What is Buddhism ?”, Ajahn Brahmavamso, Abbot of Bodhinyana Buddhist Monastery, Spiritual Director of the Buddhist Society of Western Australia, Perth, Australia, 2007
Xem bản Anh Ngữ: http://www.quangduc.com/English/basic/17buddhism.html