Thư ṭa soạn số 36
(tháng 11.2014)
TỰ DO, DÂN CHỦ, H̉A B̀NH
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội b́ bơm trong gịng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, ḥa b́nh, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ư thức tự do, khai phóng.
Ḥa b́nh không phải chỉ là ngưng chiến tranh, dừng tranh chấp. Nếu chỉ là một t́nh trạng, một hoàn cảnh đối nghịch hay đảo ngược với tranh chấp, nó sẽ tiếp tục là đầu mối của những tranh chấp mới. Cái ǵ nằm trong tương đăi, đối lập, sẽ không vĩnh viễn giữ nguyên vị thế của nó theo thời gian.
Dân chủ không phải chỉ là một thể chế đối nghịch với quân chủ, độc tài. Dân chủ theo cách hiểu phổ quát hiện nay là quyền làm chủ của người dân (power / rule of the people) trực tiếp hay gián tiếp đối với việc điều hành guồng máy quốc gia, thông qua thể thức phổ thông đầu phiếu. Nhưng nếu việc bỏ phiếu của người dân bị giới hạn trong một danh sách ứng viên được chỉ định sẵn bởi một đảng phái hay nhà cầm quyền th́ không c̣n là dân chủ.
Đơn giản như thế, nhưng nhân loại đă phải trải qua mấy ngàn năm xây dựng nền văn minh (tinh thần hay vật chất, quốc gia hay quốc tế), đổ bao máu xương, khổ nhục với hàng ngàn cuộc canh tân và cách mạng (lớn hay nhỏ, riêng hay chung), mà vẫn chưa thiết lập được một thế giới ḥa b́nh, tự do, dân chủ thực sự như mong đợi.
Tự do, dân chủ, ḥa b́nh cho đến nay vẫn c̣n là giấc mơ của nhân loại trên toàn hành tinh. Để biến giấc mơ thành hiện thực, người ta đă phải đấu tranh bằng nhiều h́nh thức: ứng cử, bầu cử, biểu t́nh, bất hợp tác, bất tuân dân sự, chiếm giữ (occupy), đấu tranh bất bạo động, và thậm chí chủ trương bạo lực (âm thầm hoặc công khai), khởi xướng chiến tranh nhằm tiêu diệt đối lập hoặc để tranh thủ vị thế của ḿnh, v.v… Ngoài ra, c̣n có h́nh thức khích lệ bằng cách trao giải thưởng cho những ai có đóng góp to lớn hoặc ảnh hưởng sâu rộng trong công cuộc vận động v́ ḥa b́nh, dân chủ, nhân quyền… (Buồn cười thay, trong một số trường hợp, giải thưởng lại trở thành mục tiêu cho những kẻ hoạt đầu, tư lợi cá nhân, thay v́ nhắm đến hạnh phúc cho số đông).
Phật giáo đă xây dựng nền móng cho tự do, dân chủ từ 25 thế kỷ trước, ngay khi đức Phật c̣n tại thế; và ḥa b́nh đối với Phật giáo, không chỉ là ngưng tranh chấp, không chiến tranh giữa các dân tộc, quốc gia hay liên quốc gia, mà vượt xa hơn trong ư nghĩa là ḥa hợp và an b́nh nơi tự tâm, cùng lúc thể hiện trong tương quan xă hội.
Không cần phải vận dụng hàng vạn lời dạy trong Ba tạng (Kinh, Luật, Luận) để chứng minh nền tảng tự do, dân chủ và ḥa b́nh của Phật giáo. Chỉ cần suy nghiệm từ những Phật ngôn từng được phổ cập trong các bộ phái Phật giáo hơn hai ngh́n năm trăm năm qua, ai cũng có thể nhận biết: đức Phật từng cổ xúy cho sự b́nh đẳng xă hội, không phân biệt giai cấp, giới tính. Điều này được chứng thực trong cơ cấu tổ chức tăng-đoàn (sangha) cũng như các nguyên tắc yết-ma (karma) và sáu pháp ḥa-kính rất dân chủ trong sinh hoạt của cộng đồng tăng lữ.
Một trong những lời dạy bất hủ của đức Phật, được đời sau đánh giá như là tuyên ngôn của bậc thầy vĩ đại nhất của nhân loại nhằm giải thoát niềm tin và sự nô lệ tư tưởng của con người trước các thần tượng, thần quyền; khai mở con đường tri thức tự do, siêu thoát:
“…Chớ có tin v́ nghe báo cáo, chớ có tin v́ nghe truyền thuyết; chớ có tin v́ theo truyền thống; chớ có tin v́ được kinh điển truyền tụng; chớ có tin v́ lư luận suy diễn; chớ có tin v́ diễn giải tương tự; chớ có tin v́ đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin v́ phù hợp với định kiến; chớ có tin v́ phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin v́ vị Sa-môn là bậc đạo sư của ḿnh.
Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự ḿnh biết như sau: ‘Các pháp này là thiện; các pháp này không đáng chê; các pháp này không bị các người có trí chỉ trích; các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc,’ thời này Kàlàmà, hăy tự đạt đến và an trú!” (*)
Những lời trên, thật đơn giản, nhưng có thể làm rung chuyển và lật nhào tất cả các chủ thuyết và hệ thống tư tưởng từng giam hăm con người trong khuôn khổ và vị thế hèn kém trước các thần linh, giáo chủ, lănh tụ, thần tượng… Cho đến những thế kỷ cận đại, nghĩa là sau gần ba thiên kỷ Phật giáo lưu truyền, những lời dạy này vẫn c̣n làm cho giới khoa học thán phục, và vẫn c̣n trực tiếp hay gián tiếp làm nền tảng, hoặc gây ư thức cho tư tưởng tự do, phong trào đấu tranh v́ dân chủ, nhân quyền, và ḥa b́nh thế giới.
Không vội tin bất cứ điều ǵ, bất cứ ai, mà phải dùng lư trí để xét đoán, suy nghiệm kỹ trước khi thực hiện: đây là phương thức tiếp cận và xác minh sự thực của khoa học, là khởi đầu cho mọi văn minh tiến bộ, và là tinh thần tự do, dân chủ của nhân loại ngày nay.
Khi thực hiện và chấp nhận điều ǵ th́ đều v́ ḷng thương, hướng về niềm hạnh phúc, an lạc cho ḿnh, cho người: đây là con đường ḥa b́nh của Phật giáo.
Người con Phật đă dẫn đầu nhân loại về ḥa b́nh trong suốt hai ngàn năm trăm năm qua, và sẽ tiếp tục nêu gương ḥa b́nh, bất bạo động cho toàn hành tinh này trong tương lai vô tận.
Những ǵ người con Phật làm là để đem lại hạnh phúc cho số đông, chứ không phải để được ban thưởng, khen tặng từ thần linh hay từ bất kỳ cá nhân, tổ chức tôn giáo và thế tục nào. Phần thưởng cao quư và to lớn nhất của người con Phật chính là niềm an lạc, hạnh phúc thực sự của tha nhân, của xă hội, quốc gia, và cho toàn thế giới. Và để có được phần thưởng ấy, trước hết hăy quên ḿnh đi. Từng bước, kiên định, không làm những điều xấu-ác, thực hiện những điều lợi ích cho ḿnh, cho người, với một tâm ư tĩnh lặng, trong sáng. Đó là mẫu h́nh lư tưởng của người con Phật trong mọi hoàn cảnh, mọi thời đại.
________________
(*) Đức Phật dạy phương cách chọn lựa, suy nghiệm và truy tầm sự thực cho những người thuộc bộ tộc Kàlàma, được ghi lại trong Kinh Kàlàma, Tăng Chi Bộ III. 65 (trích đoạn từ bản dịch của Ḥa thượng Thích Minh Châu).