NHỮNG THỬ THÁCH CỦA TĂNG GIÀ TRONG THẾ KỶ 21

 

 Nguyên tác: T.T. Bodhi

Chuyển ngữ: HT.Thích Trí Chơn

 

 

            Giới thiệu tác giả: T.T.Bodhi thế danh là Jeffrey Block, sinh năm 1944 tại thành phố New York trong một gia đ́nh theo Do Thái Giáo. Thượng tọa tốt nghiệp Cử Nhân (B.A) Triết học tại Brooklyn College năm 1966 và Tiến Sĩ Triết (Ph.D) tại Claremont Graduate School năm 1972. Năm 1967: Quy y Tam Bảo, Năm 1972:T.Tọa sang Tích Lan (Sri Lanka) thọ Sa Di, và 1973 thọ Tỳ Kheo (Đại giới) với Ḥa thượng Ananda Maitreya, một vị danh tăng học giả Tích Lan lúc bấy giờ. Năm 1977, T.Tọa trở về Hoa Kỳ, sống gần 2 năm tại Tu Viện Phật Giáo Tây Tạng Lamaist của ngài Geshe Wangyal và 3 năm tại ngôi chùa Phật giáo Nam Tông ở Hoa Thịnh Đốn (Washington D.C.). Năm 1982, thượng tọa trở qua Tích Lan, thay thế Ḥa Thượng Nyanaponika Mahathera (người Đức) nhận làm chủ biên “Hội Ấn Hành Kinh Sách Phật Giáo” (Buddh2ist Publication Society) tại Kandy năm 1984 và Chủ Tịch của Hội này năm 1988. Tháng 5 năm 2000, thượng tọa được mời đọc bài thuyết tŕnh chính trong đại lễ Phật Đản (Vesak) tổ chức tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York. Năm 2002, Thượng Tọa trở về Mỹ.  Từ tháng 7 năm 2002, thượng tọa thường trú và dạy Phật Pháp tại Tu Viện Bồ Đề (Bodhi). Hiện nay, Thượng tọa là chủ tịch Hội Đồng Tăng Già (Sangha Council) của Tu Viện Bồ Đề. Thượng Tọa là dịch giả từ Pali sang Anh ngữ các bộ Kinh sau đây:

1.Trung Bộ Kinh (The Middle Length Discourses of The Buddha) - Majjhima Nikaya, năm 1995.

2.Bản dịch mới của Tương Ưng Bộ Kinh (A New Translation of The Samyutta Nikaya) năm 2000.

 Tổng hợp tài liệu: “Wikipedia, the free Encyclopedia” “The Buddhist Handbook” by John Snelling.(Ghi chú của người dịch)  

 

Thử Thách Của Thời Đại           

 Tăng già, một đoàn thể gồm các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, là h́nh ảnh đại diện cho đức Phật trên thế gian này trải qua hơn 25 thế kỷ, đă duy tŕ sự tiếp nối tồn tại của Phật Pháp trong nhân loại bằng sự truyền trao giới luật và hoằng pháp để bảo đảm sự kế thừa di sản cũng như hiện hữu của Đức Thế Tôn. 

 

Tăng Già Của Đức Phật Sẽ Tiếp Tục Tồn Tại Trong Bao Lâu? 

 Tam Bảo ngày nay c̣n có mặt rơ ràng là nhờ vào sự hiện hữu của Chư Tăng, tượng trưng cho Ngôi Báu thứ Ba, là đoàn thể của các hiền nhân cao quư, đă nhận thức được chân lư tối thượng và siêu việt.  

 Tăng già đă tồn tại hơn 2.500 năm qua. Thời gian đó đă kéo dài hơn sự thống trị của đế quốc La Mă, tất cả những triều đại vua chúa Trung Hoa và đế quốc Anh. Tăng già đă được duy tŕ mà không cần có sự bảo vệ của sức mạnh vũ khí, quân đội hay ủng hộ của nguồn tài chính nào, mà chỉ tồn tại, nhờ vào sức mạnh của trí tuệ và giới luật.  

 Tuy nhiên, không có ǵ bảo đảm cho sự trường tồn của Tăng già, hay Tăng già sẽ tiếp tục có thể đóng góp đầy sinh động và hữu ích cho đời sống con người. Đây là trách nhiệm của chính các thành viên trong Tăng già và tùy thuộc vào mỗi thế hệ mới của chư Tăng Ni. Đó là một công tác hết sức quan trọng v́ tương lai của Phật giáo tùy thuộc vào tương lai của Tăng già.  

   Như chúng ta đă biết, Tăng già tồn tại luôn luôn nhờ vào sự hỗ tương gắn bó với cộng đồng Phật tử tại gia. Sự liên hệ giữa hai đoàn thể này là mối liên hệ của tương quan và cộng tác. 

   Theo truyền thống Phật giáo, người Phật tử tại gia cúng dường tứ sự cho chư Tăng như y áo, thức ăn, chỗ ở, thuốc men và các vật dụng cần thiết khác trong khi chư Tăng hướng dẫn, dạy dỗ giáo lư cho hàng Phật tử và nêu gương mẫu đạo đức của những người trọn đời phụng sự cho Phật Pháp. V́ sự tiếp nối tồn tại của Tăng già, mối quan hệ này phải được duy tŕ dưới nhiều h́nh thức. Nhưng khi xă hội thay đổi, vai tṛ của hai giới xuất gia và tại gia trong sự tương quan trên dĩ nhiên cũng sẽ có những thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh mới.  

   Yếu tố căn bản nhất trong mối liên hệ giữa chư Tăng và Phật tử đang có sự chuyển biến, trước hết từ thay đổi trật tự xă hội truyền thống đến hiện đại và sang xă hội kỹ thuật công nghệ. Hiện nay, dấu hiệu đặc biệt của sự thay đổi ấy là từ sự chú tâm sản xuất công nghiệp đến việc thu thập và phổ biến thông tin. Sự chuyển đổi này đang xảy ra tại khắp các nước Tây Phương và hầu hết ở các tầng lớp xă hội tiến bộ trong mọi quốc gia trên thế giới.  

    Đôi khi, đặc biệt người ta bảo rằng Tăng già đang chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang thời đại thông tin, từ nền văn minh sản xuất đến nền văn minh trí thức. Sự chuyển đổi sang xă hội “mạnh mẽ thông tin” sẽ làm thay đổi bản chất mối quan hệ gốc rễ giữa Tăng già và cư sĩ. Điều đó sẽ thách thức Tăng già phải đi t́m những giải pháp cụ thể để bảo vệ sự tồn tại của chánh pháp.  

    Tôi không phải là nhà tiên tri và cũng không thể dự đoán trước tương lai điều ǵ sẽ xảy ra, nhưng từ xu thế hiện tại, tôi sẽ cố gắng phát họa những thử thách quan trọng mà Tăng già phải đối đầu qua cách nh́n của riêng ḿnh.  

 

Vai Tṛ Của Giáo Dục 

    Trong thời đại thông tin, một tỷ lệ cao dân số tại các nước đ̣i hỏi tŕnh độ học vấn đại học. Ngày nay dân chúng có khả năng về kiến thức và thông tin nhiều hơn ngày xưa. Sự hiểu biết của họ về những vấn đề thế tục và ngay cả Phật giáo cũng sâu sắc hơn các thế hệ trước.  

   Do đó, người cư sĩ tại gia mong chờ Phật Pháp cần được nâng cao đến tŕnh độ như những điều họ đă học hỏi ở đại học và họ không đơn giản dễ dàng chấp nhận lời dạy của chư Tăng Ni cũng như hoàn toàn tin tưởng không một chút nghi ngờ như ngày xưa trong xă hội Phật giáo truyền thống.  

    Họ được giáo dục trong môi trường của chất vấn và điều tra, cho nên họ sẽ dùng phương pháp đó để nghiên cứu Phật Pháp. Do vậy, chư Tăng Ni phải sẵn sàng để trả lời các câu hỏi. Họ không thể mong chờ sự ngưỡng mộ từ các Phật tử tại gia mà quư vị xuất gia cần tranh thủ sự kính trọng bằng cách giảng giải giáo lư một cách rơ ràng, thuyết phục và hấp dẫn.  

  Chính các Tăng Ni cần có một tŕnh độ học vấn cao, trước tiên là thông hiểu Tam Tạng kinh điển, sau đó là những môn gián tiếp liên quan đến Phật Pháp như triết lư và tâm lư học hiện đại hay các lănh vực kiến thức khác. Thực tế là làm thế nào vận dụng sự hiểu biết thế gian để giải thích Phật Pháp, đó là vấn đề rất khó khăn. Công việc này đ̣i hỏi sự đóng góp tiếp tay của những người có trách nhiệm đối với nền giáo dục Phật giáo.  

 

Vai Tṛ Của Việc Xuất Bản 

  Việc xuất bản kinh sách đóng vai tṛ quan trọng nhằm tạo cơ hội nâng cao tŕnh độ hiểu biết giáo lư cho hàng Phật tử tại gia. Vào khoảng thế kư thứ hai trước tây lịch, người ta đă chép tay kinh sách để truyền bá Phật giáo và bắt đầu giữa thế kỷ thứ 20, việc in ấn phát triển và được thương mại hóa, đă góp phần tích cực trong công tác xiển dương rộng răi chánh pháp của đức Thế Tôn.  

    Hiện nay, có hàng ngàn tác phẩm Anh ngữ viết về đủ mọi lănh vực của Phật giáo phổ thông cũng như bác học. Ngoài ra, các kinh sách Phật đă được viết và dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Cho nên bất cứ một sinh viên học Phật nào siêng năng đều có thể thu thập qua sách báo một sự hiểu biết rộng răi bao la về Phật Pháp.  

   Chiếc máy vi tính đă thực hiện một cuộc cách mạng trong việc nghiên cứu Phật học. Bất cứ sinh viên nào với một máy vi tính ghi chép có thể lưu giữ toàn cả một thư viện sách Phật bao gồm các bộ Đại Tạng Kinh trong ổ dĩa cứng của ḿnh. Thông qua internet người ta cũng có thể t́m thấy được nguồn tài liệu đồ sộ về Phật giáo và tham dự các nhóm thảo luận về những chủ đề liên quan đến Phật Pháp.  

   Những cuốn sách viết về Phật giáo hiện nay không c̣n là đặc quyền sáng tác của chư Tăng. Muốn thấu triệt Kinh Tạng giáo lư Phật đà giờ đây người ta không nhất thiết phải t́m đến chùa hay tu viện để học hỏi như thời xưa trong xă hội Phật giáo truyền thống. Bởi lẽ ngày nay nhiều trường đại học có mở phân khoa Phật học dạy giáo lư cho các sinh viên và có rất nhiều học giả không phải tu sĩ uyên thâm Phật Pháp đang nghiên cứu các đề án chuyên môn về những lănh vực Phật giáo.  

   Với chúng ta, câu hỏi đặt ra là chư Tăng phải làm ǵ để phục vụ chúng sanh. Tôi nghĩ rằng nhiệm vụ của Tăng già là không cần phải ganh đua với các học giả Phật tử trí thức. Chúng ta cố gắng nghiên cứu thấu đáo, thông suốt càng nhiều kinh điển Phật giáo càng tốt, và nếu cần chúng ta có thể học hỏi thêm kiến thức nơi các vị cư sĩ tại gia uyên bác.  

    Nhưng điều mà đời sống Tăng già tại các tu viện có thể đóng góp là tạo cơ hội ứng dụng đạo Phật vào thực hành, đó là môi trường để kết hợp việc nghiên cứu học tập kinh điển với công việc hành tŕ lời Phật dạy trong cuộc sống hằng ngày xây dựng trên niềm tin, ḷng sùng đạo và tôn kính ngôi Tam Bảo.  

     Chúng ta cần phối hợp sự hiểu biết sâu xa giáo lư với hành động tu tập, kiến thức Phật học với đức tin và sự thực hành. Chúng ta không thể chỉ quan tâm đến việc nghiên cứu, thông suốt Phật Pháp mà không bao giờ thực hành, hay mù quáng tu tập mà thiếu sự hiểu biết giáo lư.  

 

Vai Tṛ Của Sự Tu Tập 

    Giáo pháp của đức Phật chinh phục con người không phải chỉ v́ quá thậm thâm vi diệu hay do bởi chứa đựng những lời khuyên răn đạo đức mà đặc biệt là v́ nó đă tŕnh bày cả một hệ thống giáo lư hướng dẫn con người tu tập có thể giải thoát luân hồi sinh tử. Sự khác biệt căn bản giữa Phật giáo và các tôn giáo khác, đó là Phật giáo đề cao vai tṛ của tâm trong vấn đề xây dựng hạnh phúc hoặc gây đau khổ cho con người cùng lúc tŕnh bày một phương pháp tu hành để nhiếp phục, làm chủ cái tâm. 

    Cho nên, cánh cửa quan trọng hướng dẫn mọi người đến với ngôi nhà Phật Pháp, là tu tập thiền định. Đây là cửa ngơ đặc biệt dành cho những ai sống ngoài truyền thống Phật giáo, nhất là hạng người đang ở Tây Phương. Nhưng thiền cũng là cánh cửa của các Phật tử thuần túy muốn tiếp xúc t́m hiểu Phật giáo từ nền tảng kiến thức khoa học với tâm trạng ṭ ṃ và hoài nghi.  

  Tôi không nghĩ rằng Thiền là câu trả lời duy nhất và trong lănh vực này, tôi phê b́nh các giáo sư Tây Phương thường muốn trích dẫn Thiền để nói về Phật giáo mà chối bỏ những học thuyết Phật giáo và niềm tin tôn giáo. Tôi cho rằng cần có sự cân bằng giữa ba lănh vực: ḷng sùng kính mộ đạo, nghiên cứu Phật Pháp, và tu tập thiền định.  

    Niềm tin mang lại công đức lành, nghiên cứu đưa đến sự hiểu biết chân chính, và thiền định giúp tâm con người sáng suốt và an lạc. Nhiều người hiện nay qua thiền định đă chú tâm t́m hiểu Phật giáo. Một khi có được sự an lạc nhờ thiền định họ sẽ quan tâm đến Phật Pháp và dần dần thấu hiểu được triết lư nhà Phật nhờ học tập kinh điển, phát khởi niềm tin, hâm mộ đạo, và cuối cùng là chọn đời sống xuất gia.  

 

Nhiệm Vụ Của Tăng Già 

   Bổn phận của chư Tăng là tôn kính và bảo vệ truyền thống cao quư của Phật giáo, sống đời khắc khổ, xa ĺa các thú vui trần tục. Bằng cách này, Tăng già luôn đề cao đời sống thanh tịnh, tôn trọng các giá trị Phật giáo truyền thống và chăm sóc, bảo vệ môi trường thiên nhiên.  

    Trong thế giới ngày nay những cuộc xung đột bằng bạo lực đang xảy ra giữa các sắc tộc và tôn giáo khác nhau. Họ luôn t́m cách giải quyết mọi sự tranh chấp bằng vũ lực. Nhưng đời sống Tăng già được xây dựng trên nền tảng bất bạo động với niềm tin rằng sự nhẫn nhục, đối thoại và thông cảm là điều căn bản thiết yếu giúp con người sống ḥa hợp, thân hữu với nhau.  

    Do vậy, Tăng già cần cổ vơ, khuyến khích mọi người trong xă hội nên t́m phương cách giải quyết các vấn đề mâu thuẩn xung đột qua sự hiểu biết với ḷng bao dung, tha thứ và t́nh thương.  

    Để bảo vệ, duy tŕ giáo pháp thậm thâm vi diệu của Đức Phật trên thế gian, Tăng già có nhiệm vụ xây dựng một đời sống thanh tịnh cho thế giới. Nhờ đó, Tăng già mới có thể giúp cho con người nhận thức được trí tuệ tuyệt đỉnh và giải thoát siêu việt để xây dựng một đời sống ḥa đồng không biên giới. 

 

Tiếng Nói Của Lương Tâm 

     Đây là một trách nhiệm chính yếu khác mà chư Tăng phải đối đầu trong thế giới ngày nay. Những vấn đề khủng khiếp đang giày xéo đời sống của hàng triệu người và đe dọa gây tai hại cho vô số kẻ khác. Trong đó, vấn đề đáng quan tâm nhất là sự xung đột giữa các sắc tộc và những cuộc chiến tranh tàn phá hủy diệt gây nên cảnh chết chóc thảm khốc cho hàng ngàn người dân vô tội trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em.  

   Tôi nghĩ đến các chính quyền đang đàn áp, giam cầm, hành hạ và tra tấn những người dân lương thiện mà không có lư do cũng như ngày đêm theo dơi, đe dọa và khủng bố những kẻ t́nh nghi khiến họ thường xuyên sống trong nỗi sợ hăi âu lo.  

     Tôi nghĩ về khoảng cách giữa những người giàu và nghèo, giữa các quốc gia phát triển và kém mở mang. Tôi nghĩ đến những cơn bệnh đói khát của hàng triệu người nghèo khổ trên thế giới, một căn bệnh có thể dễ dàng giải quyết với một giá rất rẻ.  

     Tôi nghĩ về sự suy đồi đạo đức mà hàng triệu phụ nữ trên thế giới đang phải chịu nhục nhă làm nghề măi dâm v́ sự nghèo khó hay phải nuôi gia đ́nh.  

    Tôi lại nghĩ về hàng trăm tỷ đô la đang tiêu lăng phí hàng năm khắp nơi trên thế giới, để sản xuất các loại vũ khí tàn phá trong khi một nửa dân số trên quả đất đang thiếu thốn mỗi ngày không có miếng ăn. Và cuối cùng tôi nghĩ về các hành động của những người vô trách nhiệm đang hủy diệt môi sinh như không khí, nước uống, đất đai, và thực phẩm. Họ không quan tâm ǵ đến các thế hệ tương lai. Theo ư tôi, nhiệm vụ của Tăng ǵa cần thực hiện là nên đánh thức nhân loại bằng tiếng nói lương tâm của người Phật tử khắp nơi trên thế giới.  

     Như thế, các thành viên của Tăng già phải là những con người xuất sắc để có thể gánh vác công việc truyền bá những giá trị đạo đức Phật giáo hầu góp phần giải quyết những vấn đề trọng đại mà nhân loại ngày nay đang phải đương đầu.  

 

Trích Lanka Daily News phát hành ngày

19-07-2006 tại Colombo, Sri Lanka (Tích Lan) 

 

 

 


 
Bài vở đóng góp xin gửi về: baivochanhphap@gmail.com
Copyright © 2009 Chanh Phap Newspaper
Last modified: 05/31/12